Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2012

Võ thuật Trung Hoa: BẠCH HỔ QUYỀN





Cuối cùng con khỉ đột chụp được con cọp và sửa soạn xé ra làm hai mảnh, thì bất đồ cọp trắng vùng dậy tát mạnh vào hạ bộ của khỉ đột. Con khỉ rú lên rồi ngã xuống chết tốt.
Lâm Đạo Thai chứng kiến cảnh đó lấy làm thích thú, nhơn đó về nhà ông đặt ra môn võ Bạch Hổ Quyền.
Trải qua nhiều năm, ngày nay Bạch Hổ Quyền hầu như không còn mấy người biết đến. Có hai lý lẽ làm cho môn võ này mỗi ngày mỗi lùi vào chỗ thất truyền trong nền võ thuật thế giới.
Thứ nhất là môn võ này có tính cách bí mật, người biết chỉ dạy cho con cháu, chớ không dạy đến người ngoài.
Thứ hai là một số người cho rằng những phương pháp tấn công vào hạ bộ là thuộc hạng “bàng môn tạ đạo”, không nên để ý học hỏi. Thật ra đã gọi là giao đấu thì bất cứ phương thức nào đem ra đánh bại đối phương vẫn được công nhận, miễn là dùng trong mục đích như tự vệ, cứu người bị áp bức. Còn nếu dùng những thế võ của môn phái “danh môn chính phái” vào việc xấu xa như sát nhân, đoạt của thì đó mới gọi là tà đạo.
Hôm nay để hiến cho các bạn yêu thích võ thuật, tôi sẽ trình bày những cách luyện công và những chiêu thức mà các võ sĩ Bạch Hổ Quyền đang khổ luyện hằng ngày.

NHỮNG CÁCH LUYỆN CÔNG

* LUYỆN QUYỀN
- Cách thứ nhất :
Lấy một cái lu, không to lắm cũng không nhỏ lắm, đổ nước vào độ chừng phân nữa. Xong đứng tấn, dùng quyền đánh xuống cách mặt nước 40 phân.
Phải đánh cho thật mạnh để hơi gió từ quyền phát ra làm mặt nước xao động.
Mỗi ngày tập hai lần, buổi sáng sớm lúc 5 giờ và buổi khuya lúc 12 giờ. Phải tập trong nhiều năm, đến khi dùng quyền đánh xuống mà thấy mặt nước dậy sóng thì đã gần thành công.
(Xem hình 1)
Hình 1

- Cách thứ nhì :
Mỗi lần trước khi đi đại tiện lấy một cây đèn cầy thắp lên. Xuống tấn rồi dùng quyền đánh cho đến khi nào lửa tắt thì mới được đi.
Khởi đầu dùng cây đèn nhỏ, sau dần dần thay cây khác to hơn, đến khi cây đèn to bằng cổ tay người lớn thì công phu sắp tựu thành.
(xem hình 2)
Hình 2
Tập hai cách trên đây, khi thành công quả đấm của bạn sẽ có một kình lực mạnh mẽ. Khi đánh trúng hạ bộ địch thủ, hắn sẽ ngã xuống chết mà bên ngoài hạ bộ không để lại một chút dấu vết gì cả.
Chú ý bí quyết của cái đánh vào hạ bộ là chỉ đánh một cái mau lẹ và nhẹ nhàng, khi gần tới mục tiêu mới vận sức vào.
* LUYỆN CHƯỞNG.
- Cách thứ nhất :
Lấy một thau cát, bốc lấy một nắm để giữa hai chưởng xoa đi xoa lại cho đến khi nào lòng bàn tay nóng và đỏ lên mới thôi. Mỗi ngày tập nhiều lần.
Sau khi tập được hai năm thay cát bằng những hòn bi sắt và tập trong ba năm.
(Xem hình3)
Hình 3

- Cách thứ nhì :
Cũng tập như cách trên, nhưng thay vì dùng cát và bi sắt thì ta dùng đũa để tập.
Khởi đầu dùng 34 cây đũa tre để luyện. Sau hai năm thay bằng 34 cây đũa khác bằng sắt và cũng tập trong hai năm. Mỗi ngày phải tập 10 lần.
Người luyện chưởng cách này hai bàn tay sẽ to hơn bình thường, và khi công phu tựu thành, dùng chưởng đánh vào hạ bộ đối phương, hai ba ngày sau hắn sẽ chết mà không thuốc gì cứu nổi.
Chú ý : tập hai cách trên cần phải có thuốc luyện gân cốt. Mỗi khi tập xong nhúng cả hai tay vào hũ đựng thuốc trong một phút, cho chất thuốc thấm vào da thịt. Xong lấy tay ra để tự nhiên đừng lau khô.
* LUYỆN CƯỚC.
- Cách thứ nhất :
Lấy hai khúc cây to bằng cổ chân, dài vào khoảng một thước, đóng xuống đất cách xa nhau nửa thước.
Xong đâu đấy leo lên đứng như hình vẻ lấy hai phiến sắt hoặc đá nặng chừng ba, bốn ký đặt lên hai đầu gối.
Đứng theo tư thế đó cho đến khi nào mỏi thì thôi. Mỗi ngày tập ba lần vào lúc sáng, chiều, tối. theo thời gian phải tăng thêm trọng lượng, và sau vài năm luyện tập gân cốt của chân bạn sẽ cứng cáp vô cùng.
(Xem hình4)
Hình 4

- Cách thứ nhì :
Trong Bạch Hổ Quyền không phải bất cứ đòn nào cũng tấn công vào hạ bộ cả. Thường thường các đòn khởi đầu đều đánh vào các vị trí khác để sau đó đòn cuối cùng đánh vào hạ bộ. Sau đây là cách luyện liên hoàn cước :
Treo một bao cát gần sát mặt đất. Dùng hai chân luân phiên đá lia lịa vào bao. Không nên đá cao mà chỉ đá vào khoảng ống quyền địch thủ. Sau một năm đá đã thật nhanh, một phút phải hằng mấy trăm cái bỏ bao đi, sẽ tập vừa đá vừa đi.
Sau khi công phu tựu thành, lúc giao đấu khi tung cước là đối phương không thể đỡ kịp
( Xem hình5).
Hình 5

* LUYỆN NHÃN
Người võ sĩ Bạch Hổ Quyền thời xưa còn phải luyện mắt để phòng khi gặp địch thủ dùng Huê quyền không bị tán loạn mắt.
Đây là cách tập, mỗi ngày nhìn mặt trời, ban đầu xốn xang, nhức đấu nhức óc khó chịu. Dần dần quen, hết sợ ánh sáng, không đau mắt. khi giao đấu, đầu kiếm kích lăng xăng, đao thương một bó, con mắt vẫn không loạn.
Trên đây chỉ là một vài cách trong những cách luyện công của Bạch Hổ Quyền mà thôi. Sau đây tôi sẽ trình bày vài thế thông dụng trong Bạch Hổ Quyền.
* Đỡ và đánh khi địch thủ dùng tay.
- Thế thứ nhất :
Khi địch thủ dùng tay mặt đánh vào ngực ta. Lập tức ta đưa hai tay lên đỡ và tay trái phải ở trước tay mặt. (Hình 6).
Hình 6

Lúc đó mặt ta sẽ trở nên trống trải, tất nhiên địch sẽ dùng tay còn lại đánh vào mặt ta. Tay trái ta gạt tay địch ra, đồng thời tràn người xuống dùng tay phải đánh vào hạ bộ của hắn. (Hình 7).
Hình 7

- Thế thứ nhì :
Ta dùng quyền đánh xuống đầu địch thủ, nếu hắn đỡ không kịp thì ta đánh luôn vào đầu hắn.(Hình 8).
Hình 8

Còn nếu hằn dùng hai tay đỡ kịp hai quyền của ta và định đánh hai 2 cạnh bàn tay xuống xương vai ta.(Hình 9)
Hình 9

Thì lập tức ta ngồi thụp xuống dùng quyền đánh mạnh vào hạ bộ hắn. (Hình 10)
Hình 10

* Đỡ và đánh khi địch thủ dùng chân.
- Thế thứ nhất :
Địch thủ dùng chân mặt đá vào hông ta (Hình 11).
Hình 11

Lập tức ta dùng hai tay chụp lấy cổ chân hắn, đồng thời co đầu gối lên đánh mạnh vào ống quyển hắn (Hình 12).
Hình 12

Rồi lấy tay trái kéo hắn về phía ta trong lúc chân mặt ta đá mạnh vào hạ bộ hắn (Hình 13).
Hình 13

- Thế thứ nhì :
Cũng như thế trên khi địch dùng chân mặt đá vào hông ta, (Hình 11).
Ta hạ thấp mình xuống vòng tay mặt dưới chân hắn (Hình 14).
Hình 14

Xong xoay mình dùng cùi chỏ tay trái đánh vào hạ bộ hắn (Hình 15).
Hình 15

Sau khi đã lập thành thục những thế đánh đỡ, và thân thể đã cứng cáp, nhanh nhẹn. Người học Bạch Hổ Quyền sẽ tập đến “Liên Thế” tức là những thế đánh đỡ liên tiếp.
Tập liên thế rất có lợi vì nhờ đó ta có thể áp dụng những đường quyền một cách linh hoạt, không bối rối trước một địch thủ nhanh nhẹn.
Dưới đây là một liên thế đơn giản nhất và trong đó tôi sẽ gọi A là người đầu trọc, B là người kia.
- B tiến tới dùng tay chặt mạnh vào cổ A, A đưa tay mặt lên đỡ (Hình 16).
Hình 16

- B xoay mình dùng quyền đánh vào hạ bộ A, A đưa tay trái xuống đỡ (Hình 17).
Hình 17

- B đá vòng mu bàn chân mình vào ngực A và A té xuống (Hình 18).
Hình 18

Khi A té xuống, B định đá bồi thêm, A phản công vào hạ bộ B (Hình 19), để kết thúc trận đấu.

Hình 19

THIẾU LÂM PHẬT GIA QUYỀN SHAOLIN BUDDHA KUNGFU

THIẾU LÂM PHẬT GIA QUYỀN
SHAOLIN BUDDHA KUNGFU

                                                                                        Võ sư Trương Văn Bảo
                                                                           Thiếu Lâm Phật Gia Quyền - Đà Lạt

     Thiếu Lâm Phật Gia Quyền (Shaolin Fut Gar Kuen, Shaolin Buddha Fist, Shaolin Buddha Kungfu) xuất xứ từ Thiếu Lâm Tự, ngôi chùa tại Tung Sơn, thị xã Đăng Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Thiếu Lâm Tự nổi tiếng bởi sự liên hệ phát triển giữa Thiền tông Phật giáo và Võ thuật. Thiếu Lâm Tự với Môn phái Thiếu Lâm được xem là nguồn gốc của các võ phái Trung Quốc hiện nay, từng có câu thành ngữ về điều đó: “Thiên hạ công phu xuất Thiếu Lâm”, có nghĩa là mọi công phu trong thiên hạ đều khởi phát từ Thiếu Lâm.
   
     Theo dòng chảy của Thiền tông Phật giáo, Thiếu Lâm Phật Gia Quyền, tên gọi của môn võ từ cửa Phật, cũng tỏa đi khắp nơi. Phật Gia có nghĩa là “Nhà Phật”. Quyền pháp Thiếu Lâm Phật Gia ẩn tàng các yếu quyết cương nhu, mang đầy đủ vóc dáng của “Đạt Ma thập bát thủ”, “La Hán trấn sơn thập bát cước”, “Ngũ hình quyền”, “Thập hình quyền”, “Hổ hạc song hình quyền”, “Hầu hạc song hình quyền”, “Khai sơn quyền”, “La Hán quyền”, “Dịch cân kinh”, “Tẩy tủy pháp”… cho đến nội công, ngoại công, khí công, công phu đặc dị và nhiều loại hình binh khí thập bát ban, đặc biệt là Thiền trượng. (Thập bát ứng thị Lão Dương chi số giả, vũ khí tượng hình phục hổ hàng long sáo phủ chi trung. Long thị can giả. Hổ thị phế giả. Điều phụ vọng tâm. Viết thị danh kỳ nhân đệ nhất ban võ nghệ).





Về tinh thần, Thiếu Lâm Phật Gia Quyền theo tôn chỉ Thiền tông Phật giáo, học điềm đạm, khiêm tốn, tự thắng để làm hành trang: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”, “Tự giác nhi giác tha”, “Đánh thắng vạn quân không bằng tự thắng chính mình, tự thắng mình là chiến công oanh liệt nhất” (Lời Đức Phật Thích Ca), lấy Mười Điều Tâm Niệm trong Luận Bảo Vương Tam Muội và Thiếu Lâm Thập Giới Ước của Tổ sư Đạt Ma làm kim chỉ nam để giáo dục cho các thế hệ môn sinh.

     Tổ thứ 28 Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) là người của nước Quốc Hương, thuộc Nam Thiên Trúc (De-khan), tức Ấn Độ, con thứ ba của vua Chí Vương, dòng Sát Đế Lị, tên tục là Bồ Đề Đa La (Bodhitara)
     …….
     Tổ Đạt Ma cỡi sóng qua Đông Độ.
    Tổ Đạt Ma vào đất Ngụy đường đường như một kiếm khách chốn hải tần.                                                                   
     Tổ Đạt Ma “đơn đao trực nhập” triều đình Lương Võ Đế, nói pháp như chuyển sóng.
     Tổ Đạt Ma chín năm trầm hùng ngồi nhìn vách đá Chùa Thiếu Lâm.
     Tổ Đạt Ma kỳ diệu ban pháp an tâm.
     Tổ Đạt Ma cỡi bè lau về Thiên Trúc.
     Tổ Đạt Ma xách một chiếc dép phi hành trên ngọn Thông Lãnh.
     Tổ Đạt Ma và Tổ Đạt Ma.
      ……
      Người đi qua không gian, hiển hiện như chưa - từng - có.
Người đi qua không gian, hiển hiện như chưa - từng - không.
Người đi thẳng vào sự thật, dẫm nát dư luận.
Người đi thẳng vào lòng người, không mặt nạ.
Ngoài dứt chư duyên.
Trong không toan tính.
Tâm như tường vách.
Mới là đạt đạo.

Bồ Đề Đạt Ma là Tổ sư Môn phái võ thuật Thiếu Lâm, nhập niết bàn ngày mồng 9 tháng 10 năm Bính Thìn, tức năm Đại Thông thứ 2 triều Nhà Lương (529 TL).

Tư tưởng Thiền tông Phật giáo qua cuộc đối thoại ghi trong Pháp Bảo Đàn Kinh:
Ngũ Tổ hỏi rằng: “Nhà ngươi là người phương nào, muốn cần vật chi?”
Huệ Năng thưa rằng: “Đệ tử là dân thường ở Tân Châu trong xứ Lãnh Nam, từ xa lại đây lễ Thầy, chỉ cầu làm Phật, chớ chẳng cầu vật chi khác”.
Ngũ Tổ nói: “Ngươi là người xứ Lãnh Nam lại là giống muông mọi, làm sao làm Phật được?”
Huệ Năng bạch rằng: “Người ta tuy có kẻ Nam người Bắc, chứ cái Phật tánh vốn không Nam, Bắc. Thân muông mọi với thân Hòa Thượng chẳng đồng, chớ cái Phật tánh có chi là khác biệt?”

Bồ Đề vốn không cây.
Gương sáng cũng không đài.
Xưa nay không một vật.
Đâu chỗ nhuốm trần ai?

MƯỜI ÐIỀU TÂM NIỆM

1. Nghĩ đến thân thể đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì tham dục dễ sanh.
2. Ở đời đừng cầu không khó khăn, vì không khó khăn thì kiêu sa nổi dậy.
3. Cứu xét tâm tính đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu triệt.
4. Sự nghiệp đừng cầu không chông gai, vì không chông gai thì chí nguyện không kiên cường.
5. Việc làm đừng mong dễ thành, vì dễ thành thì lòng thị thường kiêu ngạo.
6. Giao tiếp đừng mong lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.
7. Với người đừng mong thuận chiều ý mình, vì thuận chiều ý mình thì tất sinh tự kiêu.
8. Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu tính.
9. Thấy lợi đừng nhúng tay, vì nhúng tay thì hắc ám tâm trí.
10. Oan ức không cần biện bạch vì biện bạch là hèn nhát, mà trả thù thì oán đối kéo dài.
Bởi vậy, Phật Đà thiết lập Chánh Pháp, lấy bệnh khổ làm thuốc hay, lấy hoạn nạn làm thành công, lấy gai góc làm giải thoát, lấy ma quân làm đạo bạn, lấy khó khăn làm sự tác thành, lấy bạn tệ bạc làm người giúp đỡ, lấy kẻ chống nghịch làm người giao du, lấy sự thi ân như đôi dép bỏ, lấy xả lợi làm vinh hoa, lấy oan ức làm đà tiến thủ. Thế nên, ở trong chướng ngại mà vượt qua tất cả.

                                                                                 (Luận Bảo Vương Tam Muội)


THẬP GIỚI ƯỚC                                                                                                                   
THIẾU LÂM PHẬT GIA QUYỀN
   Thiếu Lâm Thập Giới Ước là những điều răn do Đạt Ma Tổ sư nêu ra. Trải đã hơn ngàn năm, những điều răn trên vẫn được các thế hệ môn đồ tuân thủ.
Điều 1: Rèn tập kỹ thuật Thiếu Lâm này chủ yếu nhằm cường kiện thể phách, cần chuyên chú sớm hôm, không được tự tung lầm lẫn.
Đìều 2: Thuần thục kỹ thuật song hành với thấm nhuần ý niệm từ bi của Phật Gia. Chỉ sử dụng kỹ thuật khi cần tự vệ, tuyệt đối cấm buông thả. Kẻ thích dùng bạo lực kể như đã vi phạm thanh qui.
Điều 3: Trong sinh hoạt thường ngày phải kính cẩn theo lời các bậc Sư trưởng, không nên có hành vi ngạo mạn hoặc đối nghịch.
Điều 4: Đối với bạn bè đồng môn cần giữ hòa thuận, ôn lương, thành tín, không được dè bỉu hoặc có ý “thị cường lăng nhược”.
Điều 5: Khi bôn tẩu cùng tục gia tương ngộ, cần nhẫn nhục thể hiện chủ ý cứu đời, cứu người, không được sử dụng công phu Thiếu Lâm bừa bãi.
Điều 6: Theo môn qui Thiếu Lâm, không được tức khí đua tranh, không được tỉ thí. Gặp người chưa rõ lai lịch hãy giữ lễ chào kính nhau, nếu là đồng môn hãy giúp đỡ nhau để tỏ tình đồng đạo.
Điều 7: Rượu thường đoạt trí, thịt dễ mê hồn. Rượu thịt là thứ đại cấm kỵ của đệ tử Phật Gia, phải tuyệt đối tránh xa.
Điều 8: Nam phong nữ sắc cũng là thứ đại cấm kỵ của đệ tử Phật Gia, tuyệt đối không được tơ hào.
Điều 9: Đối với tục gia đệ tử, cần xem xét và thử thách cẩn trọng khí có ý truyền thụ võ công, không thể nhẹ dạ nghiêng theo sự cao hứng nhất thời, khinh suất để vướng vào tội di hại cho đời, phạm lỗi đi ngược lại tôn chỉ Phật Gia và môn phái.
Điều 10: Ỷ mạnh tranh thắng, lớn lối khoe khoang, chê bai người khác là cách tự giết mình mà còn lưu độc cho người. Đem kỹ thuật truyền thụ bừa bãi cho người vì tình thân thúc bách hoặc mưu cầu phú quý làm bại hoại Thiền môn là gieo họa cho đời.

Phật giáo và văn học Trung Quố

A.Theo sự lưu chuyển và phiên dịch của kinh điển Phật giáo,tăng sĩ cùng với văn nhân danh sĩ kết bạn ngày càng nhiều,phổ cập phương thức giảng kinh tự viện,Phật giáo đối với các phương diện văn học cổ đại Trung Quốc có sức ảnh hưởng rất lớn.


Từ thời Nguỵ Tấn đến nay ở thi ca,tiểu thuyết,hý kịch đều hiện ra diện mạo không gi ống với đời Tần Hán và trước đó.Nguyên nhân chủ yếu là vì văn thể của kinh điển Phật giáo,thái độ sống và quan điểm giá trị của lý luận Phật giáo tác động vào phương pháp tuyên truyền Phật giáo và chủ trương sanh mạng và vì văn học Trung Quốc mang lại phương pháp ý tứ mới ,mệnh đề văn thể mới làm cho hình thức và nội dung thay đổi. Ở hình thức:thể luật thơ bao gồm giảng xướng văn học,thông tục tiểu thuyết huý khúc (tuồng)…sản sanh tập tục văn học có tác dụng trực tiếp. Ở nội dung tăng thêm hai loại thành phần mới ,biến hoá mới.


1.            Văn học Trung quốc như “Kinh Thư” vốn xem trọng nhân sự,tản văn Trang Tử giàu ảo tưởng,nhìn xa trông rộng, thuận với tự nhiên;Hán phú chủ yếu miêu tả sông núi mây gió;mà chủ trương của Phật giáo là nhân sinh và quan sát vô thường khổ không của nó,biết được cái chuyển biến huyển hoá của vũ trụ,từ đó xây dụng cảnh tình mới cho văn nhân.Tác phẩm văn học từ thời Đường đến nay phê phán nhân sinh vũ trụ, đối với nhiều sự việc tự nhiên làm phê bình siêu việt, tuyên truyền biểu dương điều tốt căm ghét điều xấu nêu lên ý nghĩa và mục đích chính của nhân quả Phật giáo.


2.    Văn học vốn có của Trung Quốc tương đối ít sức ảo tưởng, ít tính siêu việt thời gian không gian, ảo tương siêu hiện thực mà chú trọng về sự tả thực.Tức làm cho một số truyện thần tiên cũng có ý đơn giản;mà Phật giáo thì giàu sức tưởng tượng trên trời dưới đất không môt chút gò bó,không bị hạn chế của không gian thời gian, tam thiên đại thiên thế giới vô cùng vô tận,có sắc thái lãng mạng rất lớn,thúc đẩy chủ nghĩa văn học lãng mạn phát triễn.


3.    Do cuối đời Hán đến Đông Tấn các vị An Thế Cao,Trúc Pháp Hộ… áp dụng phương pháp trực dịch để phiên dịch kinh điển Phật giáo “Cao tăng truyện” “An Thế Cao truyện”.Từ Đông Tấn đến nay ,các nhà phiên dịch Phật giáo đã từ từ sáng tạo một loại thể tài mới của tiếng Hoa và tiếng Phạm dung hợp  (phiên dịch văn học).


Cưu Ma La Thập dịch “Dy Ma Cật sở thuyết kinh” “Diệu Pháp Liên Hoa kinh” “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa kinh” “Đại Trí Độ Luận”,thì dịch văn chương rất hoa mỹ,ngôn ngữ ý nghĩa rất thông suốt rõ ràng.Trong đó “Duy Ma Cật sở thuyết kinh” nếu từ góc độ văn học mà thưởng thức thì đây là một bộ tiểu thuyết tuyệt diệu. “Diệu Pháp Liên Hoa kinh” tuyên dương tất cả chúng sanh đều có khã năng đạt đến trí tuệ của Phật,mục đích chính là người người đều  có thể thành Phật, và còn có rất nhiều ngụ ngôn mỹ lệ khác. “Đại Phật Đảnh Như Lai mật ngôn tu chứng liểu nghĩa chư Bồ tát vạn hạnh Thủ Lăng Nghiêm kinh” là hình tượng sinh động tuyên truyền thứ tự tu hành từ thấp đến cao, đạt đến giáo nghĩa của quốc độ chư Phật.Ba bộ kinh này được văn nhân các thời đại yêu thích, được xem là tác phẩm thuần văn học, đối với văn họcTrung Quốc có ảnh hửơng rất lớn.


4.    Phật Đà Bạt Đà La dịch “Đại Phương Qủang Phật Hoa Nghiêm kinh”,văn chương rất đặc biệt ,hung vĩ và kỳ lạ. Đàm Vô Sấm dịch “Phật Sở Hành Tán kinh”thuật lại việc làm của cuộc đời Đức Phật thành một bộ truyện ký hình thức văn vần.Hai bộ kinh này làm tiêu biểu đậm đà thú vị nhất cho văn học,trong lịch sử văn học có ảnh hưởng mạnh .Từ thời Hán Nguỵ đến nay,văn xuôi và văn vần làm chủ yếu.Lúc này các nhà phiên dịch kinh Phật lấy văn thể bạch thoại giản dị thông thường dịch kinh,không cần trao chuốt nhưng phải hiểu ảnh hửơng sâu sắc cho sự phát triễn văn học sau này.


5.    Trung quốc trước đời Đường không có các tác phẩm tiểu thuyết và kịch tuồng; mà Phật kinh xem trọng kết cấu và bố cục của hình thức như: “Phật sở hành  tán kinh”, “Phật bổn hạnh kinh”, “Phổ diệu kinh” thành câu chuyện dài; “Tu lại kinh” là tác phẩm thể tiểu thuyết, “Duy Ma Cật sở thuyết kinh” “Tứ ích Phạm thiên sở vấn kinh” là thể loại bán tiểu thuyết;  mà những chuyện này đều từ kinh điển Phật giáo dịch ra, từ đó có tác dụng thúc đẩy và khuyến khích gợi ý phát triễn và sản sanh ra các thể loại hát nói,kể chuyện ,tiểu thuyết,hý khúc về sau.


Phật giáo Ấn Độ dùng những câu chuyện ngụ ngôn của tiểu đại lục Nam Á thời cổ lại làm “dụ thể”, y theo khuôn giáo nghĩa của mình gọi là  “dụ y” lại tuyên truyền giáo nghĩa của mình. Lấy “thí dụ”nỗi tiếng như” kinh bách dụ”( “Bách cú thí dụ kinh”, thực tế chỉ có 98 dụ) .Vì tính chất của tác phẩm ngụ ngôn giản dị súc tích sinh động thú vị hay đẹp, để súc tiến văn học ngụ ngôn Trung Quốc.


B.Phật giáo đối với thơ ca Trung Quốc có ảnh hưởng rất lớn,ngoài ra Phật giáo truyền nhập Thanh minh luận 聲明論Ấn Độ dẫn đến phát minh bốn thanh của âm vận học Nam triều và các quy luật thơ ca.Tứ đó thúc đẩy khai sáng các thể tài mới  và cách thức luật thơ ca từ đời Đường về sau.


Mặt khác tư tưởng Phật giáo, đặc biệt là tư tưởng thiền tông và lí luận Không của Bát Nhã, len lỏi thấm nhuần và thúc đẩy mãnh liệt cho nội dung thơ ca,phong  phú cảnh tình của thi ca làm cho thơ ca càng thêm đa sắc thái, hình thành một loại thi cảnh điềm nhiên tịch tịnh,nhàn nhã tự tại.


Thời Đông Tấn học giả Chi Đạo Lâm chuyên về Bát Nhã là nhà thơ kiệt xuất nhất lúc đó tác phẩm của Ông rất nhiều hịên vẫn được bảo tồn .Kết hợp tư tưởng Lão Trang và sông núi tự nhiên với tài học văn nghệ xuất sắc tài năng mới lạ làm cho nhiều văn nhân tán thưởng,khen ngợi.


Nhà thơ lớn Tạ Linh Vận,khéo léo khắc hoạ cảnh vật tự nhiên,có cảm giác thoả mái dể chịu,mở ra trường phái thi ca sơn thuỷ.


Đời Đường thiền tông hưng thạnh thơ Đường cũng mở mang thành tinh hoa văn học một thời,thiền và thơ đều là nhu yếu thể nghiệm nội tâm, đều xem trọng gợi ý  và hình tượng ví dụ, và tìm cầu ý ngoài lời.Thiền tông là một tương tự tính của tông giáo thực tiễn và sáng tác thơ ca thực tiễn hình thành chiếc cầu nối thông thương hai loại này (văn học và tông giáo).


Đời Đường thi nhân thường nói về thiền,tham thiền ,làm thơ biểu đạt ý vị thiền và lý thiền,thiền sư cũng cùng với thi nhân xướng hoạ,ngâm vịnh biểu đạt cảnh giới lý tưởng của nhân sinh ,từ đó biểu hiện len lỏi một chiều của thiền đối với thi ca vì thơ Đường mở ra con đường mới.Thiền có hai ảnh hưởng chủ yếu đối với thơ:một là lấy thiền nhập vào thơ,lấy thiền ý thiền vị dẫn nhập vào trong thơ;hai là lấy thiền dụ thơ, lấy quan điểm thiền tông mà luận bàn thơ.


Các đại thi nhân như: Vương Duy,Mạnh Hạo Nhiên,Bạch Cư Dị,Hàn Sơn Tử, Liểu Tông Nguyên…


Sau đời Tống thiền tông tiếp tục thịnh hành, có nhiều vị Tăng cũng là nhà thơ,học thông nội ngoại ngâm vịnh rất tuyệt,văn nhân cùng với danh tăng thường qua lại như Tô Đông Pha ,Vương An Thạch,Hoàng Đình Kiên ,Dương Vạn Lý…làm nhiều bài thơ pha trọn tư tưởng Phật giáo,thậm chí còn lấy cả Ngữ lục thiền tông.


C.Phật giáo có ảnh hưởng đến hát nói và tiểu thuyết, đối với thi ca có ảnh hưởng nỗi bật.Từ Nam bắc triều về sau Phật giáo vì thu hút tín đồ,mở rộng ảnh hưởng,bắt đầu phổ biến ba phương pháp hoằng pháp là “chuyển đọc” “phạm bối” “xướng đạo”. “chuyển đọc”:xướng kinh,vịnh kinh tức phúng tụng Phật kinh làm cho người nghe hiểu. “phạm bối”:các bài ca tán của Phật giáo,lấy thanh âm cảm động lòng người. “xướng đạo”:tuyên truyền khai đạo ,giảng kinh thuyết pháp.Những phương pháp này làm cho Phật giáo đi vào nhân gian,một mặt mở ra phong khí ca nhạc Phật giáo, đồng thời có viết biến văn,tiếp đến là kịch nói…xuất hiện. “biến văn” đối với văn học thông thường có sự ảnh hưởng rất lớn.Những câu chuyện của cuộc đời Đức Phật vẽ thành những bức tranh đặc sắc gọi là “biến hiện”về sau phát triễn thành câu chuyện Phật kinh gọi là “biến văn”.


Đời Đường lưu hành một nghệ thuật hát nói goi là “chuyển biến”, “chuyển” là điệu hát nói “biến”thể văn thay đổi,lúc biểu diễn vừa biểu hiện rõ tranh vẽ vừa hát nội dung câu chuyện.Bức tranh đó goi là  “biến tứơng”,bản gốc của câu chuyện hát đó gọi là “biến văn”.Biến văn từ nội dung Phật giáo dần dần giảm nhẹ ý nghĩa tôn giáo mà mở rộng nhân vật lịch sử,câu chuyện dân gian.Quan trọng có Duy Ma Cật  cư sĩ và Văn Thù Sư Lợi bàn luận phật pháp như “Duy Ma Cật kinh biến văn”, “Đại Mục Kiền Liên Minh Gian Cứu Mẹ”của câu chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ, “Hàng ma biến văn” của Xá Lợi Phất và lục sư đấu pháp, “ Mạnh Khương Nữ biến văn” của Mạnh Khương Nữ đến Vạn Lý Trường Thành tìm chồng khóc đến nỗi tường thành sụp đỗ.


Biến văn tuy được nhân dân yêu thích nhưng bị xem là không phù hợp để phát triễn…Tống Chân Tông Triệu Hằng Minh cấm biến văn lưu hành nên phong trào giảng xướng biến văn ở tự viện do đây mà dập tắt nhưng lại lấy hình thức khác lặp lại  thể của Tô Đông Pha.


Kế thừa trực tiếp biến văn nhưng lấy hát nói làm chủ gọi là “bảo quyển”;gián tiếp ảnh hưởng có:hát nói ,các cung điệu,kể chuyện lịch sử,tiểu thuyết bạch thoại… “bảo quyển”hình thành vào đời Tống thịnh hành vào đời Minh Thanh;lấy văn vần tám chữ,mười chữ làm chủ ở giữa lấy văn xuôi,hiện nay còn lại những câu chuyện Phật giáo như “Hương sơn bảo quyển” “Ngư lam bảo quyển” .Câu chuyện dân gian lưu  hành ở Minh Thanh như “Lương Sơn Bá bảo quyển” “Thổ địa bảo quyển” “Dược danh bảo quyển”…hơn hai  trăm loại.


Bảo quyển về sau phát triễn thành Khúc nghệ kịch nói hình thành vào thời Nguyên ,thịnh hành vào thời Minh,biểu diễn từ một đến ba người có hát có nói.Nhạc khí  là tỳ bà ba giây,nguyệt cầm làm chính vừa đàn vừa hát,như kịch nói Tô Châu kịch  nói Dương Châu đều là những điệu hát nói tiếng địa phương lưu hành ở phương nam.Các cung điệu ,nguồn gốc ở Bắc Kinh lưu hành vào thời Tống Kim Nguyên, lấy hát làm chính nói làm phụ nhưng phần hát phức tạp,lại không lấy phạm âm làm chủ mà lấy các điệu hát đang lưu hành lúc đó,đối với đời Nguyên hình thức tuồng Trung Quốc có ảnh hưởng rất lớn.


D.Trước đời Tần tiểu thuyết không được các tầng lớp thượng lưu xem trọng, đến Lục triều bắt đầu xuất hiện những người viết tạp chí, người đời Đường giảng lịch sử bằng những câu chuyện thần kỳ, người đời Tống có tiểu thuyết bạch thoại, từ đời Nguyên Minh về sau có tiểu thuyết chương hồi,tiểu thuyết bắt đầu đưa lên vũ đài văn học nhưng đối lập với thi ca..


Đời Đường các danh tăng sáng tác biến văn,lấy phương thức nói chuyện đời thường để hát nói Phật kinh cũng có hát nói chuyện đời thường, “thuyết thoại” ảnh hửong đến người đời Đường “thuyết thoại” là điệu hát nghệ thuật, “ thoại” là câu chuyện , “thuyết thoại”là giảng thuyết câu chuyện sau đó phát triễn thành người thuyết thoại trên phương diện kể chuyện bình sách ở đời Tống, những bản gốc của câu chuyện đó gọi là “thoại bản”,phần kể chuyện lịch sử(thường dùng lối văn gần gủi , bình dị) và tiểu thuyết (dùng lối văn bạch thoại,truyện ngắn ).Người đời Tống nói bản gốc ‘bình luận về tác phẩm và Đường Tăng Tam Tạng thỉnh kinh” cộng 17 chương mang hình thức đầu tiên tiểu thuyết chương hồi.Từ  tiểu thuyết bản gốc phát triễn thành tiểu thuyết chương hồi,chương hồi rõ ràng ,  từng đoạn hoàn chỉnh ,câu chuyện liên tiếp  làm thành hình thức tiểu thuyết chủ yếu đời Minh Thanh như: “ Tam Quốc Diễn Nghĩa”, Thuỷ Hữ truyện”, “Tây Du Ký”, “Đối Thần diễn nghĩa”, “Kim Bình Mai từ thoại”, “Hồng Lô Mộng” ..v…v…


E.Từ “Nguyên Tạp Kịch”hiện ra hình thức hợp với ca nhạc ,vũ đạo, động tác và lời  nói của nhân vật trong kịch bản.Nguyên Tạp Kịch không những lấy tài liệu truyền kỳ, tiểu thuyết mà còn trực tiếp lấy tài liệu của câu chuyện Phật giáo như:Trịnh Đình Ngọc(Bố Đại Hoà Thượng), Ngô Xương Linh(Đường Tam Tạng Tây Thiên thỉnh kinh,(Qúan Âm Bồ Tát tu hành hương sơn ký) của đời Minh, (Mục Liên Cứu Mẹ khuyến thiện hý văn)…đều nhận ảnh hưởng của Phật giáo.


(Bài này của giáo sư Tử Công Lâm trường đại học thành phố Đài Bắc Đài Loan, Như Nguyện dịch)
Xin cảm ơn dịch giả đã cộng tác, gửi bài

Kiến trúc là một ngành nghệ thuật và khoa học

Kiến trúc là một ngành nghệ thuậtkhoa học về tổ chức sắp xếp không gian, lập hồ sơ thiết kế các công trình kiến trúc. Kiến trúc sư với kiến thức chuyên ngành kiến trúc, ngoài công tác thiết kế công trình có thể tham gia vào rất nhiều các lĩnh vực thiết kế quản lý khác, như quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị, thiết kế cảnh quan, quản lý đô thị, quản lý giám sát dự án, thiết kế nội thất, thiết kế đồ họa hay thiết kế tạo dáng công nghiệp.
Từ những vật liệu sẵn có, những tri thức khoa học, kinh nghiệm, nhu cầu thực tế thực tế, quan niệm về ý nghĩa và giá trị thẩm mỹ của các hình thức kiến trúc, mỗi nền văn hóa thường để lại hàng loạt các công trình kiến trúc có chung những phong cách kiến trúc riêng, đặc trưng cho các thời kỳ lịch sử.
Kiến trúc hiện đại đi theo xu hướng tôn sùng công nghệ và vật liệu mới, công năng sử dụng, và năng lực sáng tạo cá nhân, do đó các công trình kiến trúc hiện đại thường không có nhiều liên hệ đến văn hóa bản địa.
Sự khô cứng, vô tính của kiến trúc hiện đại bị phê phán mạnh mẽ trong những năm 1970s khiến trào lưu kiến trúc hậu hiện đại ra đời. Công nghệ và vật liệu mới vẫn được áp dụng mạnh mẽ trong kiến trúc hậu hiện đại, mà áp dụng chúng một cách khôn ngoan đầy cảm xúc hơn, nhằm nhấn mạnh các đặc thù của công trình và mối liên hệ của công trình đến khung cảnh tự nhiên văn hóa xã hội xung quanh.

[sửa] Lịch sử kiến trúc


Dolmen ở Bỉ

Stonehenge ở England
Bắt đầu buổi bình minh của lịch sử loài người, đứng trước nhu cầu tự bảo vệ mình trước các tác động thiên nhiên thời tiết, con người tiền sử đã phải tạo nên những dạng thức kiến trúc đầu tiên để tồn tại. Như vậy, kiến trúc trước tiên được nảy sinh từ trên nhu cầu công năng sử dụng của con người. Trong lịch sử kiến trúc châu Âu, giả thuyết về nguồn gốc của kiến trúc được Vitruvius đề cập đến trong tác phẩm Mười cuốn sách viết về kiến trúc. Theo đó, túp lều nguyên thủy được xem là điểm khởi thủy cho mọi dạng thức của kiến trúc sau này.
Vào thời kỳ đồ đá mới, con người đã xây dựng những tường thành kiên cố để tự bảo vệ, ví dụ như bức tường thành bằng đá nổi tiếng được tìm thấy ở Jericho, có niên đại xây dựng vào năm 8000 trước Công nguyên. Người ta cũng đã khai quật được một cụm quần cư gồm những nhà tròn xây dựng bằng những tảng đá chồng xếp lên nhau ở làng Skara BraeScotland.
Vào thời đại đồ đồng, các loại hình kiến trúc đầu tiên đã ra đời. Đó là các loại hình sau đây:

[sửa] Kiến trúc và Xây dựng

[sửa] Các phong cách kiến trúc phương Tây nổi tiếng


Các dạng thức cột trong kiến trúc phương Tây

Đấu trường ở Roma, Ý, phong cách kiến trúc Roman

Đấu trường Coloseum, Ý
Lịch sử kiến trúc đã trải qua nhiều giai đoạn với các phong cách khác nhau. Lịch sử kiến trúc châu Âu, nếu phân chia theo các giai đoạn lịch sử, người ta có các dòng kiến trúc chính:

[sửa] Kiến trúc Việt Nam

Kiến trúc Việt Nam có thể chia ra làm các giai đoạn loại nổi bật sau đây:

[sửa] Kiến trúc cổ Việt Nam

Kiến trúc cổ truyền Việt Nam đa phần sử dụng kết cấu khung gỗ như nhà gỗ truyền thống Việt Nam kết hợp với các vật liệu bổ trợ khác như gạch, đá, ngói, đất, rơm, tre... Trong thể loại kiến trúc này, thực sự không có sự khác biệt hoặc phân chia hoặc khác biệt nhiều về kết cấu của các thể loại công trình khác nhau. Dựa trên đặc điểm cũng như tính chất của hệ kết cấu cũng như vật liệu này, trong kiến trúc cổ truyền Việt Nam không thực sự tồn tại các công trình có kích thước lớn như ở các quốc gia khác.
Trong suốt lịch sử, kiến trúc cổ truyền Việt Nam thực sự không có nhiều thay đổi hoặc có xuất hiện những trường phái như ở châu Âu. Vì là một quốc gia phải liên tục chịu đựng chiến tranh trải dài theo lịch sử, thời gian để hòa bình xây dựng rất ngắn, nên kiến trúc lớn hay bền vững tồn tại không có nhiều. Có thể phân loại kiến trúc Việt Nam ra các công trình hạng mục theo:
  • Chức năng sử dụng: kiến trúc cung điện, tôn giáo (đình, chùa, miếu thờ...), văn hóa (bia, đền...), nhà ở dân gian,...
  • Vật liệu xây dựng thì cũng ít có tính cách lâu dài, chỉ trừ các công trình công cộng: gạch, đá, gỗ quý (thiết mộc)... mà đa số dùng các vật liệu địa phương sẵn có như lá, tranh, tre, gỗ đẽo, đá kê nền cột, đất sét nung hoặc không nung, bùn trộn rơm,...
  • Kết cấu: khung sườn gỗ, mộng và lỗ mộng (không dùng đinh), vĩ kèo gỗ đòn tay, rui mè, đòn vong, cột kê tán (không móng, cừ...) tùy theo điều kiện địa lý mà có thể nhà kết cấu nâng sàn, nửa nhà sàn nửa nền đất, hay trên nền đất, nhưng không có lầu hay nhiều tầng như các nước khác. Mái nhà thường có độ dốc cao do hay dùng lá, tranh, ngói (dốc lớn hơn 45 độ).
  • Trang trí: công trình công cộng thì thường lợp ngói (hoàng cung, đình, miếu...), mái công ở góc mái có trang trí đầu đao, rồng, cá,... chạm trổ hoa văn trang trí các đầu đà xà gồ gỗ, các hình tượng trang trí thường từ thú họ tứ linh (Long, Ly, Qui, Phượng) hay cọp, cá, ...
  • Thiết kế bình đồ: công trình công cộng như chùa, đình thường có bình đồ dùng theo chiết tự Hán như nội công ngoại quốc, ... còn nhà ở thì thường là 3 gian, 2 chái, hình chữ đinh, nhà chính (nhà trên) và nhà phụ (nhà dưới) có sân nước (sân thiên tỉnh)... và thường không ngăn chia ra các phòng nhỏ như ở tây phương, 1 cửa chính và 1 cửa đi phụ và rất ít cửa sổ. Nhà ở miền Nam nhiều sông rạch nên phương tiện đi lại chính là xuồng nên công trình phụ như nhà để ghe xuồng thường ở mé sông (xẽo) hay ụ tàu, và phía ngoài nhà có chuồng trâu bò, còn kho lúa thì thường đặt trong nhà.
  • Vật lý kiến trúc: thông gió tự nhiên, tường và mái nhà thường trùm kín nhà do mưa rất nhiều, hơn nữa cửa đi và cửa sổ mở rất ít do an ninh ngừa trộm cắp nên chiếu sáng tự nhiên rất tối và kém sáng sủa, nhà ở thường hướng nam (đón gió nồm thổi mát vào mùa hè) và 2 chái phụ ở 2 đầu nhà sẽ là hướng đông tây chống hơi nóng mặt trời sáng và chiều. Trồng cây: trước nhà trồng cau (cau để đón gió nam mát) sau nhà trồng chuối (lá chuối ngăn bớt gió bấc lạnh mùa đông).

[sửa] Kiến trúc thuộc địa

Thể loại kiến trúc này được du nhập từ các nước phương Tây, cùng với sự xuất hiện của người Pháp tại Việt Nam vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20. Loại hình kiến trúc này phát triển song song với quá trình khai thác thuộc địa của người Pháp. Do đặc điểm của riêng của điều kiện địa lý, khí hậu khác biệt nên các phong cách kiến trúc châu Âu đã phải có những chuyển biến nhất định để hòa hợp với điều kiện Việt Nam.

[sửa] Kiến trúc mới

Thể loại kiến trúc này được hình thành từ giữa thế kỷ 20, sau khi nước Việt Nam thoát khỏi giai đoạn thuộc địa của thực dân Pháp. Dựa trên điều kiện lịch sử khác biệt, kiến trúc hai miền Nam và Bắc cũng phải chịu những ảnh hưởng nhất định.

[sửa] Kiến trúc đương đại

Cùng với sự phát triển của kinh tế cũng như quá trình mở của hội nhập quốc tế sau giai đoạn Đổi mới và sự du nhập nhiều luồng kiến trúc khác nhau vào Việt Nam đã hình thành nên một khuynh hướng kiến trúc mới. Vào giai đoạn của mở cửa, phong cách kiến trúc này phần nhiều mang tính lai tạp sao chép các đặc điểm kiến trúc nước ngoài còn mang tính hỗn loạn. Hiện nay, các kiến trúc sư Việt Nam vẫn đang lần tìm một con đường cho riêng họ.
Tuy nhiên, từ năm 2003 đến nay(2007) một số trào lưu kiến trúc mới theo phong cách hiện đại đã được hình thành. Tuy chưa rõ nét nhưng đã một phần thể hiện được sự hội nhập với thế giới của các kiến trúc sư Việt Nam. Bên cạnh các hình thức thường thấy ngoài đường phố, công năng sử dụng cũng được nghiên cứu nghiêm túc hơn, tạo tiện nghi cho người sử dụng tốt hơn.

Thích Ngộ An (dịch) 


佛陀的教义是极为[w1] 简明[w2] 的,其究竟的目的,就是对众生示教利喜,要让我们从执着中醒悟 过来。但由于弟子众多,根性也不尽相同,佛陀对于这些人,并不执着于某种教义,而是采用能适合对方根性的道理,所谓契理契机为他们说法;就好比现在大学, 设立种种的科系,就其兴趣
专长而因材施教[w3] 。弟子们于佛陀涅槃后,将佛陀所说的“法”加以结集整理时,注入了很多的解释,因此也就形成经、律、论三藏十二部 经典浩如渊海[w4] 的八万四千法门的教义。
可是,到了后世,祖师们有的特别尊重某一个法门,有的特别崇敬某一种义理,甚至还有 特别推崇[w5] 某些经论,而逐渐形成分门别类的系统,并且倡导自家所崇尚的教法是最为究竟的,而产生所谓的各宗各派:在印度的原始佛教就有分为上座、大众的二十 个部派;大乘则有中观、瑜伽的空有二宗。在中国佛教,有演绎流传至今的律宗、三论宗、禅宗、法华宗、净土宗、唯识宗、华严宗、密宗等大乘八宗,俱舍、成 实,小乘二宗:共成中国佛教十宗。各宗派开宗的祖师们为了消除宗派间的冲突,而运用判教的方式来整理佛陀的教法,并且各自判别各宗的高下,也为自宗在佛陀 一代时教中安立位次,如华严宗的五教十宗说,法华宗的五时八教说,即是目前最普遍流传的判教。而太虚大师也立大乘三宗:法界圆觉宗、法性空慧宗、法相唯识 宗□;印顺长老则立大乘三系:真常唯心系、性空唯名系、虚妄唯识系 □,来归纳所有的大乘教理。门户宗派的兴起,不仅是在印度或中国,其他重要的佛教国家中也都有同样的现象,如藏传佛教、日本佛教、韩国佛教□□在本册文中 皆已列举出其主要分派,因此,这里就不再加以一一细述[w6] 
然而,各宗的兴起,各有其道风,这是很正常的,但是我们却不能忽略[w7] 了佛陀是观机[w8] [w9]  的,方便顺应众生的根机,而导入正觉。这是说明了随着世事的转变,会有不同的教化方式,不同的发展。因此,佛陀的说法制戒等因缘,在时间上、空间上,都不 拘泥固闭[w10] ,也不专重某一种修证,某一种理论,某一条戒法□□。因为,假如佛法偏颇[w11] 起来,而自以为是能通往正觉的大道,那是不合真理的,甚至破坏佛法的特质 与圆融,更有碍于[w12] 佛法的弘传。
佛教传入中国至今,约二千年的历史,其中演变的过程也相当的繁复[w13] ,为了让大家总括的 了解,我也特将其流传与发展的中国佛教分为六个时期:第一、魏晋南北朝为经典翻译时期;第二、隋唐盛世为八宗并弘时期;第三、五代赵宋为禅净争主时期;第 四、元明清朝为宫廷密教时期;第五、清末民初为净土经忏时期;第六、二十一世纪为人间佛教发扬时期。此六个时期,只是大致说明佛教在中国弘传的情况。
佛教是人本的宗教,不唯[w14] 十方诸佛皆在人间成道、度众,所有高僧大德也都是在人间修行、弘法,人间佛教的慈悲、空性、中道、缘起、业力、真如,乃是[w15] 一切众生的光明和指南。为了圆满人间佛教,必先要有以下几点观念:
一、佛教人间化
佛陀出生于人间,以出世的心性,做入世的事业。真正佛子也应当积极进取[w16] 地从事佛教文化、教育、慈善和弘法的事业,转娑婆[w17] 为人间净土,达到“人间佛法化,佛法人间化”的目标。
二、教派统一化
对于佛法的教义,不论是大乘、小乘各各宗派,固然[w18] 有彼此的风格,但彼此之间不是批判[w19]  争执的,不是你错我对的,而是相互的尊重与包容,相互的赞叹与融和,同中存异,异中求同。因此,我们更应做到禅净融和、显密融和、大小乘融和、南北传融 和,甚至要将传统与现代融和,共同[w20] 遵佛陀的慈心悲愿,融和五乘十宗,修持三学而圆满佛道。
三、教理科学化
为了将佛法密切的应用于生活中,需要推行科学的佛教、生活的佛教,从生活上的衣食住 行、人际往来[w21] 的关系中,去推动以道德为本,有利于社会的现代化佛教。其中运用现代化的文明科技、语文、网路,节省[w22] 了时空、人力,将佛法广泛流传,并且提倡 以服务、奉献、精进、耐劳[w23] 等做为现代化的修行、试验、考察[w24] 、实证,提高众生对佛教的认识与信仰。
四、度众国际化
佛法不分种族、宗教、国家,因此在世界的每一个地方,都要努力推动净化人心,福利群生的工作,甚至要结合各地人士的力量,共同为世界和平、社会福祉来努力。同时更要扩大胸襟[w25] ,包容异己,群策群力[w26] ,以法界为心,以地球人自居[w27] 
今日的“佛教是人间的佛教”,这是佛陀的本怀,这个发展方向早已被世人接受了,恳切的希望我们都能开发自性,升华人格,将佛陀的悲智愿行落实人间。
[注释]
□太虚大师立大乘三宗:法性空慧宗、法相唯识宗、法界圆觉宗。法性空慧指各部《般若经》及宗《般若经》的诸论;法相唯识包括法相学与唯识学;法界圆觉学指《法华经》、《维摩经》、《华严经》、《楞伽经》、《楞严经》、《圆觉经》及净土方面等有关法界、如来藏等诸经论。
□印顺长老将印度大乘佛教分判为性空唯名、虚妄唯识、真常唯心三大系,此与旧说大异其趣。性空唯名论,指中观大乘;虚妄唯识论,指瑜伽大乘;真常唯心论,指如来藏思想。
[习题]
一、试述宗派形成的缘由。
二、举出三种对佛陀一代教法的判摄。
三、中国佛教的发展可分为那些时期?
四、今后各宗派应如何相互融和与统一?
五、二十一世纪的佛教应朝何种方向发展?


 [w1]Rất
 [w2]Ngắn ngọn xúc tích
 [w3]Dạy theo trình đọ
 [w4]Nội dung sâu rộng
 [w5]Tôn sùng và thúc đẩy
 [w6]Nói rõ thêm
 [w7]Xem nhẹ
 [w8]Đùa giỡn
 [w9]Dạy theo căn cơ
 [w10]Cứng nhắc
 [w11]Thiên kiến, thien lệch thiên vị
 [w12]Chướng ngại
 [w13]Phức tạp
 [w14]Không chỉ
 [w15]la
 [w16]mạnh dạn
 [w17]taba
 [w18]tuy
 [w19]phê phán, phê bình
 [w20]cẩn thận và tôn kính
 [w21]vấn đề giao tế giữa người với người.
 [w22]tiết kiệm
 [w23]chịu khó
 [w24]khảo sát
 [w25]tấm lòng
 [w26]hợp lòng hợp sức
 [w27]tự cho mình là tự nghĩ là


Bài Thứ Nhất: Tổng Luận Tông Phái
Thích Ngộ An (lược dịch)
Giáo nghĩa kinh Phật vô cùng ngắn ngọn xúc tích, mục đích cứu cánh chính là khai thị chúng sanh đạt được lợi ích an vui,  khiến cho chúng sanh tỉnh ngộ từ trong những chấp trước. Nhưng do vì có nhiều chúng đệ tử căn cơ khác nhau nên đối với số người này Đức Phật không câu nệ vào giáo nghĩa mà chọn giảng những giáo lí phù hợp với căn tánh của họ, cho nên gọi là vì chúng sanh mà nói pháp khế lí, khế cơ; cũng giống như đại học bây giờ thành lập nên nhiều khoa dạy theo sở thích trình độ chuyên môn của sinh viên.
Sau Phật nhập niết bàn, lúc tiến hành chỉnh lí kết tập lại “pháp” (những lời nói của Phật) rất nhiều lí giải được thêm vào, vì thế  hình thành 12 bộ kinh, luật, luận giáo nghĩa thâm sâu, số lượng đồ sộ, phong phú bao gồm tám vạn bốn ngàn pháp môn.
Nhưng đến đời sau, các vị tổ sư có người vì đặc biệt tôn trọng một loại pháp môn nào đó, có người thì đặc biệt sùng kính một loại giáo lí nào đó, thậm chí có vị còn đặc biệt tôn sùng và phát triển một số kinh luận, từ đó mà  dần dần hình thành hệ thống phân loại pháp môn, và từ đây xuất hiện tư tưởng tự cho rằng giáo pháp của tông mình mới là cứu cánh nhất, bởi đó hình thành nên nhiều tông phái.  Phật giáo Nguyên Thủy  Ấn Độ phân thành 20 bộ phái của thượng tọa bộ và đại chúng bộ; trong đó hai tông không hữu của đại thừa thì có trung quán và du già. Còn Phật giáo tại Trung Quốc có 8 tông phái đại thừa là luật tông, tam luận tông, thiền tông, pháp hoa tông, tịnh độ tông, duy thức tông, hoa nghiêm tông, mật tông v.vv..diễn dịch và lưu truyền đến ngày nay. hai tông tiểu thừa là câu xá và thành thật tông cộng lại thành 10 tông Phật giáo Trung Quốc.
Các vị tổ sư khai sáng tông phái, vì muốn tránh sự sung đột giữa các tông phái nên các ngài đã vận dụng phương thức phán giáo để chỉnh lí giáo pháp của Đức Phật, và riêng biệt sắp xếp thứ tự cao thấp của các tông phái, cũng như tự mình sắp xếp chỗ đứng dựa theo thời gian thuyết giáo của Đức Phật. Ví dụ như thuyết ngũ giáo thập tông của Hoa nghiêm tông, thuyết ngũ thời bát giáo của Pháp Hoa tông, là phương thức phán giáo lưu truyền và phổ biến nhất đương thời. Đại sư Thái Hư cũng lập ra ba tông đại thừa là pháp giới viên giác tông, pháp tánh không huệ tông, pháp tướng duy thức tông; Đại sư Ấn Thuận lập ra ba hệ đại thừa là chân thường duy tâm hệ, tánh không duy danh hệ, hư vọng duy thức hệ, và các ngài quy nạp những cái này thành giáo lí đại thừa. Sự hưng khởi của các tông phái, môn phái không chỉ xuất hiện tại Ấn Độ hoặc Trung Quốc mà nó cũng là một hiện tượng chung của các nước theo Phật giáo khác như Tây Tạng, Nhật bản, Hàn Quốc. Trong quyển sách này chúng tôi đã nêu ra nguyên nhân chủ yếu của sự phân phái, vì thế chỗ này không cần nói rõ thêm nữa.
Các tông phái tuy cùng nhau hưng khởi , nhưng mỗi tông đều có đạo phong riêng của mình, đây là việc rất bình thường, thế nhưng chúng ta không thể xem nhẹ việc giáo hóa ứng cơ của Phật, mà càng phải chú trọng đến việc tùy thuận căn cơ của chúng sanh để có thể dẫn họ vào con đường chánh giác. Điều này muốn nói rõ đến sự tùy thuận theo sự chuyển biến của tình hình xã hội, và sẽ có những phương thức giáo hóa và phát triển không giống nhau, do đó giáo pháp đức Phật tùy theo nhân duyên, thời gian, không gian mà chế dung, tất cả đều không câu nệ một cách cứng nhắc, cũng không chú trọng vào một loại tu chứng, một loại lí luận hay một loại giới pháp nào. Bởi vì giả sử, giáo pháp đức Phật thiên kiến mà tự cho rằng, một mạch có thể tiến thẳng đến đạo lớn chánh giác thì thật không hợp với chân lí, thậm chí còn phá hoại, làm mất đi tính chất dung hòa đặc biệt của Phật pháp, và càng làm cản trở sự hoằng truyền Phật pháp.
Từ khi Phật giáo truyền nhập vào trung quốc đến nay ước khoảng 2000 năm lịch sử, trong đó quá trình diễn biến cũng tương đối phức tạp, vì muốn cho mọi người hiểu được một cách bao quát, chúng tôi cũng đặc biệt phân sự lưu truyền và phát triển của Phật giáo Trung Quốc thành 6 thời kỳ:
Thứ nhất: thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc Triều lấy việc phiên dịch kinh điển làm chính
Thứ hai: thời đại Tùy Đường hưng thịnh với sự ra đời và phát triển của tám tông phái Phật giáo
Thứ ba: thời đại Triệu Tống, Ngũ Đại là thời kỳ thiền tịnh tranh bá
Thứ tư: thời đại triều Nguyên, Minh, Thanh, là thời kỳ mật giáo cung đình
Thứ năm: cuối nhà Thanh đầu Dân Quốc, là thời kỳ tịnh độ kinh sám
Thứ sáu: thế kỷ 21 sự phát dương của Phật giáo nhân gian.
Sáu thời kỳ trên chỉ là đại khái nói rõ tình hình hoằng truyền Phật giáo tại Trung Quốc.
Phật giáo là tôn giáo của con người, không chỉ 10 phương chư Phật đều thành đạo, độ chúng sanh tại nhân gian, mà các cao Tăng Đại Đức cũng đều tu hành và hoằng pháp ở nhân gian. Các giáo thuyết từ bi, tánh không, trung đạo, duyên khởi, nghiệp lực, chân như của Phật giáo nhân gian là ánh quang minh và kim chỉ nam cho tất chúng sanh. Để hoàn bị viên mãn Phật giáo nhân gian, chúng ta cần phải trang bị bằng những quan niệm đưới đây:
Một: Phật giáo hóa nhân gian
Đức Phật sanh ra tại nhân gian, dùng tâm tánh xuất thế để làm sự nghiệp nhập thế. Người Phật tử chân chánh cũng phải nên tích cực mạnh dạn tham gia sự nghiệp văn hóa, giáo dục, từ thiện và hoằng pháp của Phật giáo, biến cỏi ta bà thành tịnh độ nhân gian, đạt được mục tiêu nhân gian hóa Phật pháp hay Phật pháp hóa nhân gian.
Hai: thống nhất hóa giáo phái
Đối với  giáo nghĩa Phật pháp phải quan niệm rằng: bất luận là tông phái đại thừa hay tiểu thừa tuy có phong cách khác nhau, nhưng giữa sự khác nhau đó chúng ta không nên phê phán tranh chấp, không nên quan niệm là bạn sai tôi đúng, mà phải tôn trọng, bao dung, tán thán và dung hòa lẫn nhau, trong sự giống nhau luôn có điểm dị biệt và trong cái dị biệt luôn mong cầu sự tương đồng. vì thế chúng ta phải làm sao dung hòa cho được giữa thiền và tịnh, giữa mật và hiển, giữa đại thừa và tiểu thừa, giữa nam và bắc, thậm chí còn phải dung hòa giữa truyền thống và hiện đại. Mọi người phải cẩn thận giữ gìn và tôn kính tâm từ bi và nguyện rộng lớn của đức Phật, dung hòa 10 tông, năm thừa, tu trì tam vô lậu học để đạt đến viên mãn Phật đạo.
Ba: khoa học hóa triết lí Phật giáo
Vấn đề ứng dụng Phật giáo vào trong cuộc sống, nó có mối quan hệ mật thiết đối với việc thúc đẩy Phật giáo hóa khoa học và Phật giáo hóa đời sống, từ trong những mối quan hệ ăn, mặc, ở, đi lại hay  giao tế giữa người với người trong cuộc sống, chúng ta cần thúc đẩy việc lấy đạo đức làm nền tảng, lấy lợp ích xã hội làm mục tiêu cho công cuộc hiện đại hóa Phật giáo. Mà muốn hiện đại hóa Phật giáo thì chúng ta cần phải vận dụng văn minh khoa học kỹ thuật, ngôn ngữ văn từ, internet như vậy mới tiết kiệm thời gian, không gian, nguồn nhân lực, mà nhanh chóng mang Phật pháp quảng bá lưu truyền rộng khắp. Đồng thời chúng ta cần phải đề sướng và lấy tinh thần phục vụ, cống hiến, tinh tấn, chịu khó vv.. của hiện đại hóa, để áp dụng vào việc tu hành, thực nghiệm, thực chứng và đề cao nhận thức , lòng tin của quần chúng đối với Phật giáo.
Bốn: Quốc tế hóa độ chúng
Phật pháp không phân chủng tộc, tông giáo, quốc  gia, vì thế mỗi một nơi nào trên thế giới này đều cần phải nổ lực thúc đẩy việc tịnh hóa lòng người, thực hiện công tác mang lợi ích cho quần chúng, thậm chí cần phải kết hợp lực lượng nhân sĩ các nước lại, mọi người phải nổ lực vì một thế giới hòa bình, một xã hội tốt đẹp hạnh phúc. Đồng thời càng phải mở rộng tấm lòng, bao dung, tha thứ, hợp lòng hợp sức lấy cỏi đời làm tâm, xem mọi người trên trái đất là anh em một nhà.
Ngày nay “phật giáo là phật giáo của nhân gian”, đây cũng chính là bổn hoài của Đức Phật, và phương hướng phát triển này, từ sớm đã được người đời tiếp nhận, khẩn thiết mong rằng chúng ta đều có thể khai mở phát triển tự tánh, thăng hoa nhân cách, mang bi trí nguyện hạnh của Phật đà rãi khắp nhân gian.
Chú thích:
1.    Đại sư Thái Hư thành lập ba tông đại thừa là: pháp tánh không huệ tông, pháp tướng duy thức tông, pháp giới viên giác tông. Pháp tánh không huệ  là chỉ cho các bộ kinh bát nhã và các bộ luận kinh bát nhã; còn pháp tướng duy thức bao gồm pháp tướng học và duy thức học; pháp giới viên giác học chỉ các bộ kinh luận như kinh pháp hoa, kinh duy ma, kinh hoa nghiêm, kinh lăng già, kinh lăng nghiêm, kinh viên giác, và các kinh có mối quan hệ về phương diện pháp giới tịnh độ, và kinh như lai tạng vv..
2.    Đại sư Ấn Thuận phân Phật giáo đại thừa Ấn Độ thành ba hệ là : tánh không duy danh, hư vọng duy thức và chân thường duy tâm, thuyết này có sự khác biệt rất lớn với thuyết củ. Tánh không duy danh luận chỉ đại thừa trung quán, hư vọng duy thức là chỉ đại thừa du già, chân thường duy tâm luận là chỉ tư tưởng như lai tạng.