Vì Sao Gọi Là “Lăng Già Sư”?
Thích Ngộ An (dịch)
Từ tổ Đạt Ma đến tổ Hoằng Nhẫn, Thiền
tông chưa chính thức dùng chữ “Thiền tông” làm tên gọi cho tông phái mình. Thời
kỳ này Thiền tông chủ yếu y cứ vào bốn quyển “Kinh Lăng Già” và dùng Kinh này để
truyền thừa cho nhau. Cho nên trong “Lăng Già Sư Tư Ký” đã liệt 5 đời Thiền sư
(cùng với vị tổ thứ 6 là Thần Tú) làm “Lăng Già Sư”. Người đời gọi 5 vị Thiền
sư này (cùng với Thần Tú) là “Lăng Già Sư”, gọi giai đoạn lịch sử Thiền học trước
khi Thiền tông được thành lập này là “thời kỳ Lăng Già Sư thừa”.
Ban
đầu tổ sư Đạt Ma đến Trung Quốc
truyền bá pháp Thiền Đại Thừa Ấn Độ, nêu lên tông chỉ “nương giáo ngộ tông”.
“Giáo” đây là chỉ cho 4 quyển kinh Lăng Già, còn cái gọi là “Tông” là chỉ cho
“tự tánh thông” mà trong kinh Lăng Già đề cập. Tổ sư Đạt Ma cho rằng: “Muốn tự
mình chứng ngộ thánh trí (nội chứng) thì trước tiên phải nương vào giáo pháp và
từ đó mới giác ngộ cho người, do vậy nên gọi là “nương giáo ngộ tông”. Điều đó
cho thấy rõ rằng bản thân Tổ Đạt Ma đã dùng kinh Lăng Già làm bộ kinh điển y cứ
căn bản. Trong Lăng Già Sư Tư ký chép : “ Đệ tử Đàm Lâm ghi lại những hành trạng
lời nói của thầy mình, tập hợp lại thành một quyển gọi là “Đạt Ma Luận”, còn sư
Bồ Đề thì lại lấy quyển yếu nghĩa “Lăng Già” chuyên giải thích về các cách thức
tọa thiền gồm 23 trang gọi là “Đạt Ma Luận”. Về sau tổ sư Đạt Ma truyền 4 quyển
kinh Lăng Già này cho Huệ Khả, đồng thời còn dặn rõ: “ Ta xét thấy ở đất Hán này
chỉ thích hợp với kinh Lăng Già, nếu ông thực hành theo đó thì có thể độ được mọi
người”. Huệ Khả cũng bảo các thầy Na, Mãn, vv.. lấy 4 quyển kinh Lăng Già này
làm tâm yếu, y theo đó mà nói năng hành xử thì sẽ không có gì phải hối tiếc. (Tục
Cao Tăng truyện,
quyển 19). Thể theo tâm nguyện của tổ sư Đạt Ma, Huệ Khả tiếp tục duy trì và
truyền thừa kinh Lăng Già. Đối với kinh Lăng Già, Huệ Khả chọn cách giải thích
tự do, không câu nệ vào văn tự, không phụ thuộc vào Huyền học. Các đệ tử của Huệ
Khả cũng rất xem trọng việc học tập nghiên cứu kinh Lăng Già: (pháp) Xung lâu ngày
nghiên cứu, thấm nhuần ý nghĩa thâm áo của kinh Lăng già, đến khi vấn đạo không
hề tỏ ra lo sợ. Điều này đã khiến cho phong trào học tập Lăng Gìa của các hậu
duệ tổ Huệ Khả trở nên thạnh hành, tức theo Sư học tập nhiều lần những nét
chính yếu của kinh. Sau đó rời đồ chúng dấn thân hành đạo, Sư đã liên tục giảng
giải kinh này hơn 30 lần,
lại gặp Huệ Khả đích thân truyền dạy và giảng kinh Lăng già theo quan điểm của
tông Nhất thừa thuộc miền Nam Ấn Độ hơn một trăm lần. Từ khi Xung Công học tập
kinh điển, chuyên lấy kinh Lăng già làm mạng mạch của mình, trước sau giảng giải
gần 200 lần.”(Tục Cao Tăng Chuyện Quyển 25).
Trên lịch sử đang tranh luận sôi nổi về vấn đề
tổ Tăng Xán là
người có thực hay không, nhưng căn cứ vào sự phân tích tư liệu của Tục Cao Tăng Chuyện, Truyền Pháp
Bảo Ký, Lịch Đại Pháp Bảo Ký, Lăng Già Sư Tư Ký, Pháp Như Hành Trạng, hoặc Đại
Thông Thiền Sư Bi vvv… thì Tổ Tăng
Xán là một nhân vật lịch sử, lại nói ít nhất là vào cuối thế
kỷ bảy thì sự truyền thừa của 5 đời tổ sư Đạt Ma, Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoăng Nhẫn
đã được đa số công nhận. Sau khi Tăng
Xán kế thừa Huệ Khả, tiếp tục lấy Lăng Già làm tâm yếu, nhưng
ngài lại “miệng nói huyền học, không ghi thành văn ký, an nhiên mà tĩnh tọa”
(Lăng Già sư tư ký).
Đạo
Tín và Hoằng Nhẫn sáng lập ra pháp môn Đông Sơn, phát triển rộng ra một bước thuyết
Lăng Già Sư. Đạo Tín thừa nhận rằng: “Nói đến pháp môn Đông Sơn của tôi thì phải
y cứ vào kinh Lăng Già, đó chính là đệ nhất tâm của chư Phật”. Kiên trì quan điểm
của kinh Lăng Già, nương giáo ngộ tông, trong ngoài tương trợ, lí sự tương
dung. Trên nguyên tắc thì Hoằng Nhẫn vẫn lấy kinh Lăng Già làm kinh điển y cứ. Trong
Lăng Già Sư Tư Ký ghi rằng: “Hoằng Nhẫn đem ý nghĩa Lăng Già để khai thị cho
các môn đồ: “Ta và Thần Tú cùng biện luận về kinh Lăng Già, huyền lí thông dung,
ắt đạt được nhiều lợi lạc.” Trong bản Đàn Kinh (Kinh Pháp Bảo Đàn) ở Động Đôn Hoàng
lại ghi chép như vầy: “Vào lúc sáng sớm, Hoằng Nhẫn gọi Lô Cung Phụng đến vẽ
Lăng Già Biến Tướng Đồ trước hành lang phía nam, nhưng sau đó nhìn thấy bài thi
kệ của Huệ Năng bèn bỏ ý định này. Do đây Đạo Tín và Hoằng Nhẫn vẫn tiếp tục
truyền thống vốn có của tổ Đạt Ma, lấy kinh Lăng Già làm kinh điển căn bản, chỉ
là vào lúc ấy đồng thời cũng xuất hiện xu hướng dần chuyển sang Kinh Kim Cang. Nói
một cách nghiêm túc thì Bắc tông của lịch sử Thiền học vẫn là tiếp tục thiền học
Lăng Già. Thần Tú tự xưng là đã bẩm thọ pháp môn Đông Sơn, thiền pháp ấy vẫn có
đầy đủ bản sắc của việc phụng trì Lăng Già làm tâm yếu. Huyền Trách, một trong
những đệ tử của Hoằng Nhẫn vì tuyên truyền thiền học của hệ thống Lăng Già Sư
mà đặc biệt soạn ra quyển “Lăng Già Nhân Pháp Chí”. Đệ tử của Huyền Trách là Tịnh
Giác cũng dựa vào nền tảng này mà biên soạn quyển “Lăng Già Sư Tư Ký” , liệt kê
ra biểu đồ thế hệ của Lăng Già Sư Tư, biểu đồ thế hệ này không chỉ xem Thần Tú
là truyền nhân của Lăng Già Sư mà còn xem đệ tử của Ngài là Phổ Tịch, Cảnh Hiền,
Nghĩa Phúc v.v.. làm thế hệ sau của Lăng Già Sư. Việc này cũng có lí do của nó.
Có người xem “thời kỳ Lăng Già Sư Thừa” trước
khi Thiền tông được thành lập là lịch sử của Lăng Già Tông, cho rằng “ từ tổ Đạt
Ma đến Thần Tú đều là tông Lăng Già chính thống”(Hồ Thích trong Lăng Già Tông Khảo),
trên thực tế đây là một sự hiểu lầm, trong lịch sử căn bản không có tồn tại cái
được gọi là Lăng Già Tông.
(CHÈN
HÌNH)
Chánh
điện chùa Ngũ Tổ Thiền ở Huỳnh Mai, Hồ Bắc. Chùa Ngũ Tổ Thiền được xây dựng vào
năm 654 công nguyên (năm thứ 5, niên hiệu Vĩnh Huy, đời nhà Đường), là đạo
tràng của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, vị tổ sư thứ năm của Thiền tông Trung Quốc, đây cũng là nơi Lục
Tổ Huệ Năng đắc pháp và được truyền thụ y bát. Trên lịch sử, chùa này từng sắc
phong là” Thiên hạ tổ đình”, trên nóc chính điện chùa kiến trúc theo kiểu Ẩm Sơn
có hai lớp mái vòm, tường màu vàng ngói màu lam. Trước chánh điện còn có bia đá khắc“Thiên hạ Thiền lâm” do Tống Huy Tông thủ
bút, biểu hiện được thanh uy pháp môn Đông Sơn của Ngũ Tổ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét