Vì sao nói lục tổ Huệ Năng mới thật sự
là
“người khai sáng” ra Thiền Tông Trung Quốc?
释悟安 (翻译)
Theo truyền thống cho rằng thiền Tông được
khai sáng vào thời Bắc Triều, sơ Tổ là Tổ Bồ Đề Đạt Ma, nhưng trên thực tế mãi
đến thời nhà Đường thiền Tông mới thật sự trở thành một tông phái của Phật
giáo.
Giai đoạn phiên dịch giới thiệu tư tưởng Phật giáo trải qua một thời
gian dài từ đời Hán, Ngụy, Lưỡng Tấn, đến Nam Bắc Triều. Trước thời Tùy Đường
tư tưởng Phật giáo đã có sự ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, đồng thời hình
thành nên rất nhiều học phái như: Địa Luận Tông, Nhiếp Luận Tông, Thành Thật
Tông v.v.. Các học phái này chuyên giảng giải kinh luận Phật giáo, mỗi học phái
đều có sự truyền thừa và quy củ riêng. Vào thời kỳ này tuy đã có tên gọi “tông”
nhưng trên thực tế vẫn là học phái, phương thức truyền bá của các học phái này cũng
giống như phương thức của các kinh sư nhà Nho thời Hán và có sự khác biệt với
các tông phái Phật giáo thời Tùy Đường sau này. Vào thời Nam Bắc triều Thiền
tông chỉ tồn tại dưới dạng học phái, đồng thời trong nội bộ thiền học cũng phân
ra nhiều chi phái nhỏ .
Những
tác phẩm như “Tọa Thiền Tam Muội Kinh”, “Thiền Pháp yếu Giải” v.v..là một sự tổng
hợp thành công 7 chi phái thiền thuộc hai hệ thống tư tưởng đại thừa và tiểu thừa.
Vào thời Cưu Ma La Thập có một chuyên gia thiền học là Phật Đà Bạt Đà La đến
Trung Quốc. Ban đầu Phật Đà Bạt Đà La làm việc chung với Cưu Ma La Thập tại Trường
An, sau đó vì không hợp với quan điểm của Cưu Ma La Thập, đồng thời đã nhận lời
mời của Huệ Viễn nên Ngài đến Lô Sơn và dịch ra những tác phẩm như “ Đạt Ma Đa
La Thiền Kinh” v.v.., những tác phẩm này rất có ảnh hưởng ở phương Nam. Từ khi An
Thế Cao khởi xướng giới thiệu về Thiền số tiểu thừa cho đến các vị phiên dịch
kinh thiền và có kinh nghiệm trong việc thực tập thiền như Pháp Hộ, La Thập,
Giác Hiền v.v.. đến năm đầu thời đại Nam Bắc Triều các chi nhánh thiền phái đã
rất phát triển. Thời Lưu Tống, Cầu Na Bạt Đà La phiên dịch bốn quyển kinh “Lăng
Già” đã mở ra hướng nhìn mới cho thiền học. Theo quan điểm kinh này phân thiền
học thành 4 loại “Ngu phu sở hành thiền”(chỉ tiểu thừa cùng với ngoại đạo thiền),
“Quán sát nghĩa thiền”(quán pháp vô ngã, nhơn vô ngã, chỉ đại thừa thiền), “Phan
duyên như thiền”(quán chơn như thật tướng), “Như lai thiền”( chỉ đại thừa tối
thượng thiền”. Về sau mật tông phân thiền thành 5 loại là Ngoại đạo thiền, Phàm
phu thiền, Tiểu thừa thiền, Đại thừa thiền, Như lai tối thượng thiền, trên căn
bản thì các loại thiền này giống nhau. “Kinh Lăng Già” không chỉ phân ra Tiểu
thừa thiền, Đại thừa thiền mà còn đề xướng khái niệm “Như lai thiền”, nói thiền
là “tự giác tri cảnh”, là cảnh giới nội chứng của chư Phật, kinh còn nhắc đi nhắc
lại nhiều lần chân tướng của thiền là “lìa văn tự”, “không y cứ vào nghĩa lí
ngôn từ”. Tư tưởng này là chỗ y cứ quan trọng của thiền Đạt Ma.
Thiền
học phương Bắc luôn rất phát triển, đến thời Bắc Ngụy cũng thế. Cùng thời với Tổ
Đạt Ma hoặc sau đó không lâu, phương Bắc xuất hiện thiền sư Tăng Triệu có một ảnh
hưởng rất lớn đối với thiền học. Tăng Triệu là đệ tử của thiền sư Phật Đà, sau
Tăng Triệu là Đạo Phòng, về sau Đạo Phòng lại trực tiếp học đạo với ngài Phật
Đà. Phật Đà ngoài truyền pháp cho Đạo Phòng ra còn truyền cho Huệ Quang, Cách
thức truyền pháp của Phật Đà có sự khác biệt với cách truyền pháp theo truyền
thống tiểu thừa của tổ Đạt Ma. Một thiền tắc khác của thiền sư Huyền Cao tại phương Bắc cũng
mang đầy sắc thái huyền bí và âm hưởng của tiên đạo.
Thiền
Đạt Ma chỉ là một thiền phái trong rất nhiều thiền phái được lưu truyền đương
thời; thiền học Đạt Ma là một trong những học phái cùng tồn tại song hành đương
thời mà truyền thừa xuống. Trên thực tế, do sự hạn chế của các điều kiện chủ
quan và khách quan mà thiền học của Ngài chỉ được truyền thừa trong nội bộ thầy
trò, sức ảnh hưởng không lớn. Thời tổ Đạt Ma vẫn chưa hội đủ các điều kiện cần
thiết để có thể hình thành nên tông phái, cho đến đời ngũ tổ Hoằng Nhẫn, thiền
Đạt Ma vẫn chỉ lưu truyền dưới dạng học phái. Nhưng vào thời điểm của Tổ Đạo
Tín và Hoằng Nhẫn thì hệ thống thiền Đạt Ma đã có một bước phát triển khá dài,
đã bắt đầu tạo lập kinh tế tự viện tự túc cho riêng mình, có khu vực truyền
giáo tương đối ổn định, tư tưởng thiền học cũng đã có sự biến đổi rõ rệt.
Đứng
về mặt lịch sử thiền học thì mỗi loại tư tưởng của thiền tông Trung Hoa điều có
mối quan hệ kế thừa với tư tưởng thiền Đạt Ma, chúng đều có chung mối quan hệ
huyết thống với thiền Đạt Ma; nhưng về mặt tư tưởng căn bản thì xác thực là do
Lục Tổ Huệ Năng trực tiếp đặt nền móng. Thiền Đạt Ma không có nội dung đốn ngộ,
cũng không phủ nhận yêu cầu ngồi thiền. Nhưng xét về mặt bản chất thì Thiền
tông Trung Hoa vẫn là một phiên bản của thiền Ấn Độ. Trên mặt nguyên tắc, tông
phái Thiền của Tổ Huệ Năng có sự khác biệt so với ý nghĩa truyền thống của các
học phái thiền thời Nam Bắc Triều, phương thức xây dựng thiền tông của Tổ là lấy
phương thức tư tưởng và phương thức sinh hoạt của chính người dân Trung Quốc mà
sáng tạo nên.
Qua
đây chúng ta có thể thấy được từ sơ Tổ Đạt Ma truyền đến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn,
trãi qua 5 đời là giai đoạn dự bị để hình thành nên tông phái, cũng gọi là giai
đoạn mở đường cho sự ra đời của thiền tông. Thiền tông là một sản phẩm tinh thần
quý giá của Phật giáo Trung Quốc, là một trong rất nhiều tông phái Phật giáo được
hình thành vào thời đại Tùy Đường. Đến thời Tổ Huệ Năng thì những điều kiện chủ
quan lẫn khách quan đều đã chín mùi để có thể hình thành nên tông phái. Giai đoạn
này được sự ủng hộ mạnh mẽ của các thế lực thống trị phong kiến nên kinh tế tự
viện nhanh chóng lớn mạnh, bảo đảm được sự cung ứng vật chất cho các hoạt động
tông phái, lấy chùa chiền làm cứ điểm. Phạm vi truyền bá thiền học không ngừng được
mở rộng, ảnh hưởng lan rộng khắp đại nam giang bắc, chủ yếu lấy tư tưởng thiền
pháp của Huệ Năng làm trung tâm cho triết học tông giáo. Thiền tông nhanh chóng
được quãng bá rộng rãi và được sự tiếp nhận của quảng đại thiền tăng cùng với
các nhân sĩ thế tục, từ đây mà một tập đoàn tăng lữ mới, lấy lợi ích cộng đồng
làm mục đích, lấy tư tưởng truyền thống làm giáo nghĩa đã thoát thai ra đời.
Bạn đang bị cao huyết áp, thiếu máu cơ tim, VIÊM XOANG MÃN TÍNH, viêm mũi dị ứng, U XƠ TỬ CUNG, đau thắt lưng, ĐIẾC NGƯỜI GIÀ, nhức mỏi bắp thịt, thoái hoá khớp gối, ngất xỉu đột ngột, viêm dạ dày có vi khuẩn HP… ? Mời các bạn vào trang chuabenhdongian.com để biết cách điều trị đơn giản và hiệu quả những bệnh thường gặp
Trả lờiXóaBạn đang bị cao huyết áp, thiếu máu cơ tim, VIÊM XOANG MÃN TÍNH, viêm mũi dị ứng, U XƠ TỬ CUNG, đau thắt lưng, ĐIẾC NGƯỜI GIÀ, nhức mỏi bắp thịt, thoái hoá khớp gối, ngất xỉu đột ngột, viêm dạ dày có vi khuẩn HP… ? Mời các bạn vào trang chuabenhdongian.com để biết cách điều trị đơn giản và hiệu quả những bệnh thường gặp
Trả lờiXóa