Thứ Hai, 23 tháng 7, 2012

Sự hình thành và phát triển Phật giáo ở Trung Hoa



Sự hình thành và phát triển Phật giáo ở Trung Hoa
Xem hình

Vào thế kỷ thứ ba trước công nguyên, vua A Dục đã gởi những sứ giả đến miền Đông Bắc Ấn Độ, thuộc vùng Pakistan và Afghanistan ngày nay. Sứ mệnh này đã được hoàn thành xuất sắc và Phật giáo trở thành trung tâm của việc học tập cho nhà sư và các học giả lỗi lạc. Khi những thương gia ở Trung Á đến vùng đất tôn giáo này buôn bán, họ đã tiếp thu được Phật giáo và chấp nhận đó là tôn giáo của họ. Cho đến trước thế kỷ thứ hai trước công nguyên, một số thành phố của Trung Á như Kotan đã trở thành những trung tâm quan trọng của Phật giáo . Người Trung Hoa đã tiếp xúc với Phật giáo lần đầu tiên thông qua những người Trung Á đã hiểu biết về Phật pháp.



Khi nhà Hán của Trung Hoa mở rộng quyền lực về phía trung Á vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên, việc giao thương và kết nối văn hóa giữa Trung Hoa và Trung Á được nâng cao. Bằng cách này, người Trung Hoa đã học tập được Phật giáo để đến giữa thế kỷ thứ nhất trước công nguyên, cộng đồng Phật tử người Trung Hoa đã hình thành. Với sự quan tâm đến Phật giáo ngày càng tăng nên sự đòi hỏi về kinh sách Phật giáo được dịch từ tiếng Ấn Độ sang Trung Hoa càng lớn. Danh nhân đầu tiên là An Thế Cao (Anshigao) từ Trung Á đến Trung Hoa vào giữa thế kỷ thứ hai. Với sự phát triễn của việc thu thập kinh điển dịch thuật bằng tiếng Hoa, Phật giáo bắt đầu được biết đến rộng rãi và một tu viện Trung Hoa đã được hình thành. Nhà sư người Trung Hoa đầu tiên chính là đệ tử của An Thế Cao (Anghigao). 

Những nhà dịch giả đầu tiên cảm thấy khó khăn khi tìm kiếm từ ngữ đúng đắn để giải thích các khái niệm Phật giáo bằng tiếng Hoa nên họ thường dùng những thuật ngữ của Lão giáo trong việc dịch thuật. Kết quả là mọi người bắt đầu liên hệ Phật giáo với sự tồn tại của Lão giáo truyền thống. Chỉ đến sau này người Trung Hoa mới hiểu được tường tận lời Đức Phật dạy.


Sau khi nhà Hán suy vong vào đầu thế kỷ thứ ba, Trung Hoa đối mặt với sự phân chia chính trị. Mặc dù chiến tranh và bạo loạn, việc dịch thuật kinh điển vẫn tiếp tục phát triễn.Trong suốt thời gian này, các nhà sư hải ngoại và Trung Hoa tích cực thiết lập nên những tu viện và các nhà sư Trung Hoa cũng tích cực trong việc tái thiết tu viện và giảng dạy Phật giáo.


Trong số những nhà sư Trung Hoa, Đạo An (Dao-an), sống vào thế kỷ thứ tư là nhà sư nổi tiếng nhất. Mặc dù Ngài phải đi chuyển thường xuyên vì những xung đột chính trị, Ngài không chỉ viết và giảng dạy Phật giáo sâu rộng mà còn phân loại chúng ra nữa. Ngài đã mời nhà dịch giả nổi tiếng Cưu Ma La Thập(Kumarajiva) từ Kucha đến giúp sức. Với sự giúp đỡ của các đệ tử Ngài Đạo An, Cưu Ma La Thập đã dịch ra rất nhiều kinh điển quan trọng và chỉnh sửa những bản dịch trước đó. Những tác phẩm dịch thuật của Ngài hiện vẫn được sử dụng cho đến ngày này. Bởi vì những căng thẳng chính trị không ngừng nghĩ, các đệ tử của Ngài Cưu Ma La Thập bị phân tán sau đó và nhờ vậy đã giúp cho sự lan truyền Phật giáo đến các vùng khác nhau của Trung Hoa.

Sự hình thành Phật giáo ở Trung Hoa

Từ thế kỷ thứ năm cho đến cuối thế kỷ thứ sáu, Bắc và Nam Trung Hoa nằm dưới sự phân chia luật lệ khác nhau. Miền nam vẫn nằm dưới sự cai trị của các triều đại bản địa trong khi miền Bắc nằm dưới sự cai trị của những kẻ ngoại bang không phải người Hoa.  Phật tử ở miền Nam tiếp tục dịch kinh sách và giảng dạy cũng như viết tham luận về các bộ kinh trọng điểm. Những nhà cầm quyền ở đây là những Phật tử  rất mộ đạo giúp xây dựng nên rất nhiều chùa chiền, tham gia vào các nghi lễ Phật giáo và tổ chức các buổi pháp thoại về Phật giáo cho công chúng.


Ở miền Bắc, trừ hai giai đoạn ngắn ngủi bị đàn áp, Phật giáo phát triễn rực rỡ dưới sự bảo hộ của những bậc đế vương hoang phí yêu thích Phật giáo. Đến cuối nữa thế kỷ thứ sáu, các nhà sư được mời vào bộ máy chính quyền. Trong thời gian nay, nghệ thuật Phật giáo vô cùng thịnh vượng đặc biệt là trong các hang động ở Thành Đôn,  Vân Cương và Long Môn.


Trong hàng ngàn hang đá ở Thành Đôn, các bức tranh Phật giáo bao phủ các bức tường và có hàng ngàn tượng Phật bên trong các hang động. Ở Vân Cương và Long Môn, rất nhiều hình ảnh Đức Phật với nhiều kích cỡ khác nhau đã được chạm khắc trên các tảng đá. Tất cả các hoạt động trên là dấu hiệu chứng tỏ sự thiết lập của Phật giáo ở Trung Hoa vào cuối giai đoạn này.

Sự phát triển của các trường phái Phật giáo


Với sự lớn mạnh của triều đại nhà Tần vào đầu thế kỷ thứ bảy, Phật giáo càng được đến gần với công chúng hơn. Phật giáo nhanh chóng trở thành một bộ phận của văn hóa Trung Hoa và có ảnh hưởng đến nghệ thuật, văn học, điêu khắc, kiến trúc và triết học của đất nước Trung Hoa thời bấy giờ. Sau đó, số lượng bản dịch kinh điển Phật giáo tăng lên không ngừng. Các Phật tử lại đương đầu với khó khăn trong việc mang những lời giảng của Đức Phật vào cuộc sống. Kết quả là nhiều trường phái Phật giáo hình thành và mỗi trường phái tập trung lên một số loại kinh sách chuyên biệt trong việc tu tập và thực hành. Trường phái Thiên Thai Tông (Tian-tai) phát triễn hệ thống những bài giảng dạy và tu tập dựa trên kinh Liên Hoa . Trường phái này cũng sắp xếp các kinh điển Phật giáo theo thứ bậc phù hợp với căn cơ của từng đối tượng người tu .


Các trường phái khác tập trung vào những lĩnh vực khác nhau của các lời Phật dạy . Hai trường phái đáng chú ý khác là Thiền Tông và Tịnh Độ Tông . Thiền Tông chú trọng vào việc thực tập thiền định và phương cách trực tiếp để kiểm soát bên trong tâm và đạt được giác ngộ . Tịnh Độ Trông chú trọng vào việc niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà . Việc tu tập dựa vào lời giảng rằng mọi người có thể được vãng sanh về cõi Tây Phương Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà nếu họ trì niệm danh hiệu Ngài một cách thành kính . Một khi đã được vãng sanh về cõi Tịnh Độ , hành giả xem như đã đạt được giải thoát dễ dàng . Bởi vì sự đơn giản của phương pháp tu tập, trường phái này trở nên phổ biến giữa các tầng lớp nhân dân ở Trung Hoa .

Những phát triễn khác của Phật giáo ở Trung Hoa




Vào giữa thế kỷ thứ chín, Phật giáo đối diện với sự chia cắt bởi sự cai trị của một hoàng đế theo Lão Giáo . Ông đã giảm số lượng tu viện, thu hồi đất chùa và bắt các tăng ni trở về với đời sống thế tục và phá hủy các hình ảnh của Đức Phật . Mặc dầu sự chia cắt chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, nó đánh dấu sự kết thúc của một thời đại Phật giáo ở Trung Hoa .Theo sau sự phá hủy các tự viện và sự phân chia của các nhà sư lỗi lạc, số lượng các trường phái Phật giáo bị suy giảm . Chỉ có hai trường phái Phật giáo Thiền Tông và Tịnh Độ Tông vẫn tiếp tục tồn tại. Kết quả đã hình thành nên một dạng tu tập Phật giáo mới trong các tự viện . Ngoài việc thiền tập, các Phật giáo cũng niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà và học kinh điển . Đây là dạng tu tập Phật giáo vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay .


Cũng như tất cả các bài giảng và thực tập của Phật giáo được kết hợp dưới mái chùa, các cư sĩ cũng bắt đầu tu tập Phật giáo, Lão Giáo và Khổng giáo . Dần dần, những bài giảng của Khổng giáo trở nên có ưu thế ở các tòa án và các nhà chức trách, những người không ưa thích Phật giáo .


Phật giáo dần dần tiếp tục có một ảnh hưởng quan trọng trong đời sống tâm linh của người Trung Hoa . Vào đầu thế kỷ thứ 20, đã có sự nổ lực hiện đại hóa và cải cách truyền thống để thu hút mọi người hơn . Một trong nhữngnhà cải cách nổi tiếng nhất là nhà sư Thái Hư (Tai-xu). Ngoài việc giới thiệu những cải cách trong cộng đồng các tự viện, Ngài cũng giới thiệu phương cách giáo dục của Tây phương bao gồm việc học tập những kiến thức thế tục và ngoại ngữ cho các Phật tử .


 Trong những năm 1960, dưới sự lãnh đạo của nhà nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Phật giáo bị đàn áp . Rất nhiều tu viện đã bị đóng cửa và các tăng ni phải trở lại cuộc sống thế tục . Trong những năm gần đây, chính sách tự do tôn giáo đã được mở rộng hơn giúp cho việc phát triển nghiên cứu về Phật giáo được phổ biến hơn .
























Ánh Thái Dương dịch (Theo buddhanet)

Thứ Ba, 17 tháng 7, 2012

Tính Cách Nhân Bản Và Thực Tiễn Của Đạo Phật


PDF.
In
Email


Viết bởi Nguyễn Thế Đăng   
... Đạo Phật, với muôn ngàn hướng đi, không gì khác hơn là làm cho con người càng ngày càng thực hiện được tính người cao đẹp của mình, những điều Chân - Thiện - Mỹ đang tiềm tàng hột giống nơi tính người được thực hiện, và sự thực hiện trọn vẹn thì gọi là thành Phật. Đức Phật đã thực hiện tính người một cách trọn vẹn, trở nên con người lý tưởng (nói theo danh từ Phật giáo là trí huệ, vô ngã, vị tha), trở thành con người toàn thiện và toàn diện, được nói gọi là Bi - Trí - Dũng, hay là bậc Chí thiện, hay là bậc Trong sạch, bậc Vị tha, bậc Điều ngự...
Đạo Phật thực tiễn ngay trong chỗ thâm sâu nhất của nó là trí huệ. Đạo Phật cho rằng con người đau khổ không mãn nguyện không phải vì một đấng nào ban phát hạnh phúc hay khổ đau, không vì một hoàn cảnh bên ngoài nào, mà vì chính tâm thức con người. Con người không thấy đúng, không thấy được như thực, mà chỉ thấy theo vọng tưởng, thành kiến, tham chấp của mình. Từ đó phiền não, khổ đau nảy sanh. Cái thấy đúng (chánh kiến) là sự mở đầu cho con đường đi đến hạnh phúc chân thực. Vì thấy sai, từ đó suy nghĩ sai, sống sai, làm sai mà phiền não khổ đau tiếp diễn.

Tính Cách Nhân Bản Và Thực Tiễn Của Đạo Phật

Nguyễn Thế Đăng

Ngày nay, về phương diện đời sống vật chất, nhân loại đã tiến bộ rất nhiều. So với nửa thế kỷ trước đây thôi, có lẽ thế hệ cha ông chúng ta cũng không thể nào hình dung nổi sự tiến bộ về mặt vật chất của thời đại chúng ta. Thế nhưng về mặt tính người, phẩm giá con người, sự cao thượng, sĩ khí của con người (con người như là loài cao quý nhất trong vũ trụ, hơn cả loài Trời, theo quan niệm Phật giáo) thì hình như con người hiện đại không hơn thời trung cổ bao nhiêu, nếu không nói là kém hơn. Những vụ diệt chủng, tàn sát tập thể xảy ra ở Campuchia thời Pôn Pốt, ở Bosnia, ở Phi châu,... Nạn tội ác, phạm pháp không chừa một nước nào, kể cả thành phần ngây thơ nhất là trẻ em. Lực lượng cảnh sát bảo vệ trật tự trị an càng ngày càng tăng về số lượng lẫn chất lượng,... Bởi thế, nhiều triết gia, trí thức Tây phương hiện đại cho rằng sự tiến bộ của nhân loại, nhìn một cách toàn diện, thực chất chỉ là ảo tưởng về sự tiến bộ.
Phải chăng trong sự hiện đại hóa của các nước tiên tiến, người ta vẫn chưa tìm ra cách nào để trả lại nhân tính cho con người, khi ở những nước có nền kỹ nghệ giải trí phim ảnh và ca nhạc đem lại số lợi nhuận xuất khẩu cao nhất, hình ảnh của các anh hùng phần đông là những con người tượng trưng cho bạo lực, hung hãn, vô nhân tính; và hình ảnh của người phụ nữ phần nhiều chỉ là những đối tượng khiêu gợi tình dục.
Đạo Phật, với muôn ngàn hướng đi, không gì khác hơn là làm cho con người càng ngày càng thực hiện được tính người cao đẹp của mình, những điều Chân - Thiện - Mỹ đang tiềm tàng hột giống nơi tính người được thực hiện, và sự thực hiện trọn vẹn thì gọi là thành Phật. Đức Phật đã thực hiện tính người một cách trọn vẹn, trở nên con người lý tưởng (nói theo danh từ Phật giáo là trí huệ, vô ngã, vị tha), trở thành con người toàn thiện và toàn diện, được nói gọi là Bi - Trí - Dũng, hay là bậc Chí thiện, hay là bậc Trong sạch, bậc Vị tha, bậc Điều ngự...
Tính nhân bản của đạo Phật là làm cho con người trở nên Người hơn, phát huy tất cả mọi tính người cao đẹp và thải trừ mọi bản năng thấp kém và hèn hạ (tham, sân, si, sát, đạo, dâm, vọng,...). Con đường thành Phật không gì khác hơn là con đường làm viên mãn những đức tính vốn đã tiềm ẩn yếu ớt nơi con người bình thường: trí sáng suốt, lòng nhân ái, sự ghét ác thích thiện, sự tự chế, sự kiên định, lòng hy sinh,... và xóa bỏ hẳn tất cả những gì làm cho con người bị ràng buộc, bị tha hóa, bị hạ thấp, bị trĩu nặng, bị mất phẩm cách của bản năng thú vật (tính ích kỷ, lòng ghen tỵ, sự giận dữ, sự si mê, sự tham lam chiếm đoạt mất hết lương tri,...). Cuộc đời này trở nên hỗn loạn khổ đau cũng vì những tính tiêu cực đó.
Tính nhân bản của đạo Phật là chống lại những gì làm hạ thấp con người và un đúc cho con người mọi đức tính cao đẹp để thực hiện trọn vẹn định mệnh và ý nghĩa làm người của nó: thoát khỏi mọi ràng buộc thấp kém để trở thành một mẫu mực chân thiện mỹ của vũ trụ, một mẫu mực của Trời và Người, bậc Thiên nhân sư. Bởi thế đạo Phật cho là thiện, là tốt những gì làm cho con người tiến hóa, hướng thượng, làm cho con người thực hiện được tính Người, tức là tính Phật; và xem là ác, là xấu tất cả những gì làm sa đọa, tha hóa con người, dù chúng đến từ đâu, dưới bất cứ hình thức nào.
Tính nhân bản của đạo Phật được đẩy đến cùng tột, khi không phân biệt con người bình thường (chúng sanh) và Phật: Phật là một chúng sanh ngộ, và chúng sanh là một người mê. Cũng một con người đó, mà mê là chúng sanh, ngộ là Phật.
Tính nhân bản của đạo Phật còn thể hiện ở một điểm quan trọng: không có một hình thức đời sống nào khác ngoài phận mệnh làm người, không có một thế giới nào khác ngoài trái đất này là tốt hơn cho con người trong việc thực hiện được định mệnh cao cả của mình; thực hiện trọn vẹn tính Người, tức là thực hiện Phật tánh. Trái với nhiều người lầm tưởng rằng đạo Phật là tiêu cực, coi thường kiếp sống con người, là chối bỏ thế giới này; ngược lại, đạo Phật đề cao cái cơ hội hiếm có là được làm người, đề cao hoàn cảnh môi trường đầy gai góc khó khăn, đầy ô trược là cõi Ta bà này vốn là nơi bùn lầy, nhưng là chỗ tốt nhất để mọc hoa sen.
Đạo Phật còn nhân bản, thực tiễn và rất hiện sinh ở chỗ không hứa hẹn, bắt buộc con người hy sinh hiện tại cho một thế giới vật chất hay tinh thần nào khác chỉ có trong sách vở hay trong tư tưởng ước vọng, mà đặt tất cả hy vọng, ước ao, đặt tất cả tiềm năng của ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai vào một khoảnh khắc hiện tiền này, chính trong một niệm hiện tiền này quyết định toàn bộ cuộc sống con người. Trong một khoảnh khắc hiện tại này có đầy đủ con đường đi lên hay con đường đi xuống, có giải thoát hay đau khổ, có toàn bộ sanh tử cũng như toàn bộ cái vốn thoát khỏi sanh tử, tức là Niết bàn. Đặt toàn bộ cuộc đời người vào trong một niệm, trong một niệm có tất cả vòng thập nhị nhân duyên khổ đau sanh tử cũng như có tất cả an lạc giải thoát, tính cách hiện sinh và thực tiễn ấy thật không đâu bằng đạo Phật.
Đạo Phật thực tiễn ngay trong chỗ thâm sâu nhất của nó là trí huệ. Đạo Phật cho rằng con người đau khổ không mãn nguyện không phải vì một đấng nào ban phát hạnh phúc hay khổ đau, không vì một hoàn cảnh bên ngoài nào, mà vì chính tâm thức con người. Con người không thấy đúng, không thấy được như thực, mà chỉ thấy theo vọng tưởng, thành kiến, tham chấp của mình. Từ đó phiền não, khổ đau nảy sanh. Cái thấy đúng (chánh kiến) là sự mở đầu cho con đường đi đến hạnh phúc chân thực. Vì thấy sai, từ đó suy nghĩ sai, sống sai, làm sai mà phiền não khổ đau tiếp diễn. Nguyên nhân của mọi phiền não khổ đau của con người và thế giới không gì khác hơn là thấy một cách méo mó, biết một cách sai lầm (vô minh) theo thành kiến, theo chủ quan, theo sự tham đắm riêng, ý muốn riêng của mình. Sự khổ đau do chính chúng ta, bằng cách tự điều chỉnh lại cái nhìn, cách sống của mình. Tóm lại, sự đau khổ chính là do sự bất toàn, sai lầm của con người. Vì thế, để thanh toán vĩnh viễn khổ đau, sợ hãi, bất an,... con người phải tiến đến chỗ hoàn thiện, nghĩa là tiến đến chỗ thành Phật. Chúng ta có thể tóm tắt đạo Phật là sự thấy đúng, sống đúng và hậu quả của việc sống đúng đó, tất nhiên là hạnh phúc.
Nêu lên một vài nhận xét trên, để thấy rằng, những vấn đề của nhân loại đã có, đang có và sẽ có đều là những vấn đề nằm tận nền tảng của thân phận con người. Ngày nào con người còn là người, chưa đến chỗ hoàn thiện, những vấn đề ấy sẽ tiếp tục nảy sanh dưới những hình thức khác, với những cách đặt tên khác. Dầu bề ngoài, nhân loại có tiến bộ đến đâu, những vấn đề căn bản vẫn đang còn đó, nếu không nói là nhiều hơn. Con đường của đạo Phật là sự tiến hóa đích thật của nhân loại, đưa con người đến chỗ hoàn thiện, và bởi đó, chấm dứt mọi vấn đề. Tất cả những vấn đề hổn mang chỉ chấm dứt, một khi con người bất toàn chấm dứt.

Thứ Bảy, 14 tháng 7, 2012

Sự khác nhau giữa bồ và vợ


Sự khác nhau giữa bồ và vợ

Đàn ông nào cũng có bồ hoặc vợ. Một số người có cả hai. Cùng là phụ nữ, nhưng bồ và vợ nhiều lúc cư xử khác nhau một cách lạ kỳ. Dưới đây, chúng tôi xin thống kê ra vài điểm để bạn đọc tiện so sánh và rút ra kinh nghiệm.

 

1. Bồ thích rủ ta đi chơi khuya. Vợ luôn bắt ta về sớm.

2. Vợ đưa ta về nhà bà ngoại. Bồ muốn đưa ta tới cửa hàng.

3. Bồ muốn ta mặc quần áo đẹp. Vợ muốn ta mặc quần áo bền.

4. Bồ thích ta mua quà. Vợ thích ta mua đồ dùng trong nhà.

5. Khi ta đưa thứ gì ra, vợ hỏi giá tiền, còn bồ hỏi bao giờ đưa món tiếp theo.

6. Đi du lịch xa, vợ mong ngày về, còn bồ sợ hãi ngày đó.

7. Vợ nhăn nhó khi thấy bạn của chồng. Bồ nhăn nhó khi ta giấu bạn.

8. Vợ dọa ly dị. Bồ dọa cưới.

9. Vợ chê ta ít tắm. Bồ chê ta phải tắm một mình.

10. Bồ thích đi xem phim. Vợ thích đi chợ.

11. Vợ lục ví ta. Còn bồ lục ví mình đưa cho ta thấy.

12. Khi ta bảo ta là một đàn ông vĩ đại, vợ không tin, còn bồ sẽ vờ tin.

13. Ngày lễ tình yêu, ta đi với vợ, còn bồ đi với ai chỉ có quỷ sứ biết.

14. Vợ khen ta khỏe mạnh, còn bồ khen ta đẹp trai.

15. Bồ đưa ta đi uống rượu. Còn vợ đưa đi uống thuốc.

16. Vợ hay nói về quá khứ, bồ hay nói về tương lai.

17. Khi cùng nhau chạy dưới mưa, bồ bảo như thế là lãng mạn. Vợ bảo như vậy là điên.

18. Vợ thích dậy sớm. Bồ thích dậy muộn.

19. Bồ thích lấy áo ta mặc. Vợ thích lấy áo ta đi giặt.

20. Vợ nhìn đường phố ban đêm nhăn nhó bảo là đông. Bồ nhìn và reo lên bảo là vui.

21. Khi ta bị bệnh, vợ mang cơm, còn bồ mang hoa.

22. Khi ta say, vợ nhăn nhó, còn bồ cùng say.

23. Vợ hay kể đêm qua có trộm định vô nhà. Bồ hay kể đêm đêm có chàng trai đi qua.

24. Ta gọi vợ là bà xã, ta gọi bồ là em yêu.

25. Ta khen vợ trẻ, còn bồ thì khen đẹp.

26. Đang đi với bồ nhìn thấy vợ ta quay đi. Đang đi với vợ nhìn thấy bồ ta cười bí hiểm.

27. Đi công tác xa, ta điện thoại bảo vợ: “Nhớ khóa cửa nhà”, còn điện thoại bảo bồ: “Nhớ đi ngủ sớm”.

28. Với bồ ta không tiếc tiền. Với vợ ta không tiếc thân thể.

29. Bồ thích chó con hoặc mèo con. Vợ thích gà vịt đã làm sẵn.

30. Xem phim, vợ khóc khi thấy những cảnh đói khổ. Còn bồ khóc khi thấy các cảnh chia tay.

31. Bồ hay nói về tình yêu. Vợ hay nói về cuộc sống.

32. Bồ nhí nhảnh. Vợ đường bệ.

33. Vợ nói yêu ta vì ta đứng đắn. Bồ nói yêu ta do ta hấp dẫn.

34. Ta và vợ kỷ niệm ngày cưới, ta và bồ kỷ niệm ngày làm quen.

35. Ta hô to với vợ: “Anh yêu gia đình” và thì thầm với bồ: “Anh yêu em”.

Theo Lê Hoàng
Thanh Niên

Giới Luật và Vấn Đề Giáo Dục


Chương I:
A.Dẫn nhập.
Nh lại lời dạy năm xưa của đức Thế Tôn khi Ngài dùng hình ảnh dụ nắm lá trong tay để xác nhận với chư Thánh đệ tử rằng, những gì Ngài đem ra giảng dạy thì ít như nắm lá trong tay và những gì mà Ngài biết rõ thì nhiều như lá trong từng khu rừng. Vì chính những điều này, như Đức Thế Tôn đã huấn thị: “Những gì mà Ngài không đem ra giảng dạy là những gì không phải căn bản cho phạm hạnh, không đưa đến ly tham, giải thoát, Giác ngộ, Niết bàn”. (sđd.,tr.442). Cũng tương tự như vậy, những gì hiểu biết và đem ra giảng dạy của chư vị giáo thọ sư thì như lá trong khu rừng nhưng những gì lãnh hội được của Tăng ni có  lẽ chỉ như lá trong một bàn tay bàn. Cho nên, đối với đề tài “Ứng dụng của giới vào cuộc sống của người xuất gia và xã hội vào trong hệ thống giáo dục Phật giáo” là một đề tài tầm cỡ về mặt nghiên cứu cũng như tu tập. Vì chúng ta biết rằng, những gì mà đức Thế Tôn đã giảng thuyết trong suốt 45 năm hoằng pháp lợi sinh của Ngài không ngoài, Giới-Định-Tuệ, và con đường tu tập ngang qua Giới-Định-Tuệ. Như chúng ta đều biết, trong những ngày cuối cùng trước khi nhập Niết Bàn, trên đường từ Magadha đến Kusinara đức Thế Tôn đã dừng chân ở nhiều nơi trên đường và hầu hết Ngài khuyên tu Giới-Định-Tuệ. Ngài đã nhắc đi nhắc lại rằng: “Này các Tỷ kheo, đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ, Định tu cùng với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ tu cùng với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm tu cùng với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các lậu hoặc.” Nhưng với khả năng hiểu biết còn hạn chế, với phạm vi cho phép của một luận văn niên luận, con không thể đi sâu vào nghiên cứu chi tiết được rừng giáo lý Giới, Định, Tuệ. Cũng như không thể đi sâu vào khảo cứu thấu đáo hệ thống giáo dục toàn diện này được mà chỉ nghiên cứu về giới trong đời sống của người xuất gia và xã hội. Bên cạnh đó, con cũng không dám có tham vọng đưa ra được một quan điểm mới nào, mà chỉ cố gắng bám sát đề tài, trình bày những khái niệm chung nhất, cập nhật nhất trong việc giáo dục con người trong xã hội hiện đại. Con nhận thấy rằng, trong mọi thời đại các hệ thống giáo dục tùy theo giai đoạn lịch sử, tùy theo hoàn cảnh xã hội, tùy theo thể chế chính trị…thì phương pháp giáo dục và nội dung giáo dục tuy có khác nhau. Nhưng nhìn chung, con người vẫn truyền trao cho nhau những kinh nghiệm về lao động, học tập, việc đối nhân xử thế…Ngày nay, ở các cấp tiểu học, trung học và nhất là các bậc cao đẳng và đại học phần lớn chỉ đào tạo con người có một vài ngành nghề nhất định nào đó để đáp ứng công việc làm ăn, sinh sống mà quên đi việc dạy con người làm người, dạy con người nhân cách và đạo đức. nhất là phải dạy con người biết cách để đối mặt với một sự thật đó là già-bệnh-chết. Hay có chăng chỉ là dạy một cách phớt lờ, qua loa đại khái.
   Chúng ta thấy rằng, trong xã hội hiện đại khi mà con người đem vật chất ra để làm thước đo quyết định cho tất cả. Rồi lấy đó làm một hệ thống lý luận để giáo dục, thì rõ ràng đạo đức của con người giữa xã hội đang đứng trước một giai đoạn khủng hoảng và nguy cơ sẽ khủng hoảng nghiêm trọng. Con người phải lo lắng và đau khổ nhiều hơn trước những căn bệnh hiểm nghèo, trước mắt môi trường sống bị đe dọa, trước những nỗi thống khổ của đói, nghèo, thiên tai, động đất…Như thế, có lẽ đã do nhận thức sai lầm ở chỗ nào đây trong việc giáo dục đào tạo con người để rồi nỗi khổ đau triền miên này cứ dai dẳng mãi mà không thể nào giải quyết được.
   Mặt khác, chúng ta nhận thấy rằng, hiện nay loài người đang đứng trên một đỉnh cao của sự thành tựu về khoa học. Cái giai đoạn mà người ta thường đem khoa học ra để làm thước đo chân lý cho sự sống. Nhưng dẫu sao con người vẫn đang chìm ngập trong sự thống khổ, lo lắng và mất cân bằng. Những căn bệnh hiểm nghèo vẫn hoành hành khắp đó đây. Và nếu đem sự phát triển của khoa học này nhằm mở lối cho cuộc sống, thì có thể, và chỉ có thể giải quyết được cái khổ của nghèo đói, cái khổ của nóng lạnh và thậm chí cho đến cái khổ của mù chữ. Nhưng không làm sao tránh được cái khổ của già, của bệnh và của chết.
   Từ những vấn đề quan yếu này, tác giả nhận thấy rằng cần phải có một đường hướng giáo dục cấp thiết được đặt ra, giúp con người nhận thấy ngay giá trị đích thực của sự sống, để con người hết lo âu, hết sợ hãi, hết tham vọng và hết khổ đau. Mà giá trị ấy là gì? Là chân nguyên, là “bản lai diện mục”, là con đường đi ra khỏi sự thống khổ trầm luân. Mà con đường ấy chính là tư do “ngã”, là con đường tu tập ngang qua Giới-Định-Tuệ. Một con đường, một hệ thống giáo lý mà Đức Thế tôn đã tuyên thuyết cách đây hơn 2500 năm. Mặt khác, nhằm trau dồi thêm kiến thức trên lộ trình học đạo, tư duy và tu tập của chính bản thân mình.
Hà Nội, Ngày 26 Tháng 6 Năm 2008
Tăng Sinh. Thích Thanh Việt.




B. Giáo Dục Và Vấn Đề Giáo Dục Trong Tăng Đoàn Và Xã Hội.
  - Khái Niệm Về Giáo Dục:
Giáo dục đã có từ rất lâu đời, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm nào chung nhất cho hai chữ giáo dục. Ví như chúng ta đều biết, giáo dục là một hiện tượng tự nhiên của xã hội, là một hiện tượng xã hội đặc biệt của con người…mà người ta có những cách hiểu, cách nhìn nhận, cách khái niệm khác nhau về giáo dục.Tuy nhiên Sự chung nhất nào đó thì ta có thể thấy được người ta có những quan niệm về giáo dục- Quan niệm phương Tây thì, ngôn ngữ “Éducation”(giáo dục) bắt nguồn từ tiếng La-tinh cổ là: “Educere” hay “Educare”(E : ra khỏi, thoát khỏi, Ducere: dẫn dắt, hướng dẫn). Giáo dục là hướng dẫn, là dẫn dắt con người từ tình trạng này đến tình trạng khác tốt đẹp hơn. Quan niệm phương Đông thì:(Giáo : dạy -Dục : nói)
Theo đó thì, giáo dục gồm những tác động nhằm biến đổi cả tinh thần và thể chất của con người sao cho ngày một hồn thiện hơn, tốt đẹp hơn.Theo hai định nghĩa trên, con người được quan niệm như một tồng thể bất khả . Giáo dục là phương tiện phục vụ cho cứu kính, tức là cho con người được phát triển toàn diện. Và cái nôi văn hóa, văn minh của nhân loại phải là xuất phát từ giáo dục. Và chính tại đây, giáo dục cũng được phát triển để cho phù hợp về cả nội dung lẫn hình thức. Giáo sư W.O.Lester Smith chủ tịch Hội nghiên cứu giáo dục Anh quốc đại học Luân Đôn đã nói: “ Khi nghĩ về giáo dục ta không được quên rằng giáo dục có tính cách phát triển của một cơ thể. Nó thường xuyên tùy thuộc và liên tục thay đổi để tự thích ứng với những nhu cầu mới và hoàn cảnh mới. Nếu cứ khư khư muốn đơn giản hóa ý nghĩa của giáo dục vào một định nghĩa theo chủ quan có tính giáo điều thì ắt hẳn không phải thái độ đúng đắn của nhà giáo dục. Giáo dục do đó không phải chỉ thay đổi theo thời gian mà còn thay đổi theo hoàn cảnh. Nó mang ý nghĩa và quan niệm khác nhau theo mỗi hoàn cảnh và ngay cả trong cùng một quốc gia nó cũng đòi hỏi một ý nghĩa một quan niệm khác nhau cho vùng nông thôn và đô thị .”( Sđd tr.22-23).
   -Tư Tưởng Giáo Dục Trong phật Giáo:
Giáo dục Phật giáo là một phương tiện tối yếu để khai mở cánh cửa trí tuệ của con người, giúp con người bíêt được thật tướng đích thực của vạn pháp, nhằm đưa họ đi vào chân- thiện- mỹ. Trên cơ sở đó, trong lộ trình tu tập, con người “phản quang tự kỷ” để phát triển tiềm năng sáng suốt, đánh thức Phật tính vốn có ở trong mình và đi vào con đường Giác ngộ, giải thoát. Yếu tố cốt lõi trong hệ thống giáo dục Phật giáo là hướng dẫn hành giả đoạn ác, tu thiện, chứng quả vô sinh. Và có thể bao hàm trong ý nghĩa bài kệ sau:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.( Pháp cú, kệ 183 )
Nếu như tất cả nước biển chỉ có một vị là - vị mặn, thì giáo lý mà đức Thế Tôn thuyết ra cũng thế, chỉ có một vị là hương vị - Giải thoát. Trong kinh Tăng Chi đức Phật có dạy:  “Này Paharada, biển lớn chỉ có một vị, đó là vị mặn. Cũng vậy, này Paharada, pháp này của Ta cũng chỉ có một vị là vị giải thoát.”(Tăng chi III, tr 57.Sđd). Điều này nói lên rằng, tư tưởng cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tam tạng giáo điển luôn mang tính nhất quán, như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt từ đầu đến cuối. Tính nhất quán ấy chính là Từ bi và Trí tuệ. Chúng được xây dựng trên nền tảng của ba môn tam Vô lậu học Giới- Định- Tuệ. Trên cơ sở này hành giả tu tập nhằm chuyển hóa từ con người mê lầm thành đức Phật giác ngộ và giải thoát, chuyển hóa tàng thức thành Như lai tạng. Nghĩa là phá trừ ngã chấp và pháp chấp, không còn mê chấp giữa thế giới chủ quan và khách quan. Thấy được thực tính của vạn pháp là vô tính, là bình đẳng, là viên dung vô ngại.
Chúng ta thấy rằng, trong suốt 45 năm thuyết giáo của đức Phật, Ngài đã tùy theo những trình độ, những căn cơ, những thời điểm khác nhau mà giảng bày ra nhiều phương tiện để dẫn dắt con người đi vào đạo giải thoát. Giáo lý mà ngài đã thuyết giảng với nhiều đề mục phong phú và ý nghĩa thì rất thậm thâm, vi diệu. Các nhà nghiên cứu Phật học sau này đã căn cứ vào đó để phân chia ra theo thời giáo.
Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhật.
A Hàm thập nhị, Phương Đẳng bát,
Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm,
Pháp Hoa, Niết Bàn cộng bát niên.
Thế thì, quan niệm trở về với bản thể nhất nguyên là quan niệm bao trùm mọi tư tưởng, mọi phương pháp trong tổng thể giáo lý Phật đà. Mặc dù, trong đó thời A Hàm là thời dạy về thế giới Hữu cho hàng Tiểu thừa; thời Bát Nhã là thời thuyết về thế giới Không cho hàng Đại thừa; thời Duy Ma, Thắng mạn, Pháp Hoa là thời trung đạo thuyết về phi hữu phi không của Thế tôn nhất thừa. Đặc biệt trong đó thời Hoa Nghiêm đức Phật đã thuyết trong thiền định 21 ngày đầu tiên sau khi thành đạo. Và thời pháp này, đức Thế tôn tuyên thuyết nhằm vào các cõi trời và các vị Bồ tát từ sơ địa trở lên mới nghe và am hiểu được. Như vậy, đây là phương pháp, là chủ trương giáo dục bằng “phương tiện thiện xảo” trong Phật giáo, là sự khéo léo của khả năng thuyết giáo, hướng dẫn thích hợp tùy theo căn tính mỗi chúng sinh để đưa đến địa vị Phật thừa. Thế nên, trong chừng mực nào đó thì ta thấy còn có phân biệt cao thấp, còn chia ra các thừa…Nhưng nhìn trên tổng thể thì chỉ có duy nhất một thừa, ấy là Phật thừa. “Ba thừa cũng chỉ là một thừa. Ba thừa là phương tiện, một thừa mới là cứu cánh. Chứng đắc nhất thừa là chứng đắc vô thượng giác ngộ. Vô thượng giác ngộ chính là Niết bàn giới. Và Niết bàn giới chính là pháp thân của Như lai.”  Và con đường để đi đến Nhất thừa đạo quả là lấy Bồ đề tâm làm khởi điểm, làm chính nhân “Hạt giống của Bồ đề tâm đã được gieo xuống và được tài bồi bằng những chất liệu của đại bi, bằng quy, giới, nguyện và hành, để sẽ đâm hoa kết trái của trí huệ Nhất thừa. Bồ đề tâm là khởi điểm và Nhất thừa là cứu cánh, hay nói cách khác, Bồ đề tâm là chính nhân và Nhất thừa là chánh quả trong quá trình Bồ tát đạo.”
Và Bồ đề tâm này được xây dựng trên cơ sở của niềm tin. Vì rằng, biển Phật pháp thì mênh mông vô lượng và chỉ có thể thâm nhập bằng tín. Như ý nghĩa trong kinh Hoa Nghiêm mà đức Phật đã dạy: “Tín là căn nguyên của đạo, là mẹ của công đức, nuôi lớn hết thảy thiện pháp, đoạn trừ lưới nghi, đưa vượt qua những nước ái dục, khai thị con đường tối thượng dẫn đến Niết bàn.”  Nguyên văn là:
“Tín vi đạo nguyên công đức mẫu
Trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn
thất ly thát ly sinh tử xuất mê lưu
Trực vãng Niết bàn vô thượng đạo.”
Mặt khác, đạo Phật lấy con người làm trung tâm giáo dục, nhằm mục đích chuyển hoá con người từ mê lầm đến giác ngộ. Đạo Phật không xa lìa cuộc đời, không tách khỏi cuộc đời, đạo và đời là nhất thể, đạo vốn là đời được giác ngộ giải thoát khỏi các phiền não các lậu hoặc, đem đến an lạc, hạnh phúc thật sự cho con người trong kiếp sống hiện tại và tương lai. Như vậy, tư tưởng giáo dục Nhất thừa của Phật giáo là không loại trừ một đối tượng nào ra ngồi khả năng giáo dục và không coi đối tượng nào là không có khả năng đạt hiệu quả giáo dục. Chúng là hệ quả tất yếu, là một tầm nhìn rất trí tuệ và bình đẳng đối với hết thảy chúng sinh. Và tất cả đều xuất phát từ lời dạy của đức Thế Tôn: “ Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tính”. Vậy nên, một khi vô minh phiền não được đoạn trừ thì Phật tính hiển bày và thành Phật, thành Phật ngay giữa cõi Ta bà ngũ trược này. Từ kẻ nhất xiển đề cho đến người nữ, ác nhân chính cơ đều thành Phật tất cả. “Mục tiêu Nhất thừa không đơn giản chỉ là mục tiêu hướng thượng của Bồ tát, nghĩa là của một hạng chúng sinh ưu việt, mà cần phải được xác định nó là mục tiêu cứu cánh của bất cứ ai trong những nỗ lực kiên trì thể hiện trọn vẹn tất cả ý nghĩa sinh tồn của mình trong cuộc đời này.”
Con đường giáo dục Phật giáo mà đức Thế tôn đã phương tiện thuyết ra thì có vô lượng những thành tựu nhưng lại cũng không ngoài ba lĩnh vực Giới học, Định học và Tuệ học. Và con đường tu tập để đưa đến Giác ngộ, Giải thoát. lẽ tất nhiên cũng không ngồi ba lĩnh vực ấy. Vị hành giả muốn đạt được mục đích, nghĩa là muốn đạt được quả vị thù thắng, muốn an lạc và hạnh phúc thật sự ngay giữa cuộc đời này thì phải nỗ lực tu tập, thực hành ngay bằng chính con đường ấy. Vì khi ta nói đến mục đích của giáo dục thì như Herbert Spencer đã nói: “ Mục đích của giáo dục không phải là để biết mà để hành động”. Chúng ta biết rằng giáo pháp là do đức Thế tôn đã phương tiện mà thuyết ra thì chính giáo pháp ấy cũng là phương tiện. Như Ngài đã từng dạy: “Nhất thiết Tu-đa-la giáo như tiêu nguyệt chỉ”. Thế thì, điều quan trọng là ta phải hành động, nghĩa là ta phải vận dụng tu tập giáo pháp ấy như thế nào để có thể mang lại quả vị thù thắng.



















CHƯƠNG II:
Nội Dung Của Giới.
Giới là từ Hán dịch từ chữ Sìla, thường được hiểu là giới hạnh, điều luật, đạo đức. Dùng để: “ Phòng ngừa, ngăn cấm sự sai trái của thân và tâm” . Cho nên, khi nói về giới chúng ta hiểu ngay rằng: “Chớ làm các điều ác” “Hãy làm các hạnh lành” như bài kệ khuyên không nên làm các điều ác, nên làm các điều lành của đức Phật. Tuy nhiên, Sìla nguyên nghĩa là sự tự nhiên, là thói quen. Có điều là khi chúng ta vượt ra khỏi những quy luật của tự nhiên, vượt ra khỏi sự vận hành tất yếu của môi trường, của xã hội thì chúng ta sẽ bị trở ngại. Như thế, để khỏi bị trở ngại thì những điều nên làm và không nên làm được đặt ra, và ý nghĩa thù thắng về mặt đạo đức của giới luật cũng được xuất hiện.
Theo Thanh Tịnh đạo thì: “ Giới có nghĩa là chế ngự theo năm cách như sau: Chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha; chế ngự bằng tỉnh giác; chế ngự bằng tri kiến; chế ngự bằng kham nhẫn; chế ngự bằng tinh tấn. Giới có nghĩa là kết hợp, vì nó kết hợp ba nghiệp thân, khẩu, ý hướng đến con đường thánh thiện. Giới có nghĩa là nền tảng, vì nó làm cơ sở cho các thiện pháp phát sinh. Giới còn có nghĩa là thanh lương, vì nó làm cho người giữ giới cảm thấy thân tâm mát mẻ” .
Khi ta học về giới là học về luật tắc trong sinh hoạt cộng đồng nói chung và trong tu sĩ Phật giáo nói riêng. Về những điều thiện phải làm và những điều ác phải tránh. Về giữ gìn thân, khẩu, ý để khỏi tạo nghiệp xấu nhằm không trở ngại đến bước đường tu tập của một Tỳ kheo. Như thế, giới còn được hiểu là giới học, là học tập, là tu hành theo giới bổn Tỳ kheo, là bộ Giới Kinh gồm những giới luật do đức Phật chế. Hiện nay, theo các nhà nghiên cứu thì chúng ta có được sáu bộ luật của sáu tông phái khác nhau. Đó là các bộ:
Theravada Vinàya.
Mahàsanghika Vinàya.
Mula-Sarvastivàda.
Mahàsasàka-Sarvastivàda.
Pharmaguptaka-Sarvastivàda.
Sarvastivàda.
Trong sáu bộ luật trên, bộ Theravada Vinàya của Thượng tọa bộ là đầy đủ và hệ thống nhất. Bộ Theravada Vinàya này có tên Pàli là Vinàya Pitaka mà ngày nay người ta vẫn gọi là Luật tạng. Và chúng được phân biệt thành ba phần trong nội dung là:
Pàtimokkha ( Ba-la-đề-mộc-xoa) tức bộ giới bổn Tỳ kheo.
Mahavagga (Đại phẩm): ghi lại những quy định trong sinh hoạt của Tăng già như thọ giới, nhập hạ, ăn mặc, thuốc men, các quyền của Tỷ kheo…ullavagga ( Tiểu phẩm): ghi lại những quy định về cách cư xử, đối đãi giữa các Tỷ kheo Tăng, Ni…
Như chúng ta đều biết sự hình thành các bộ luật tương đối khá chậm đến gần cả chục thế kỷ sau thời đức Phật. Vào lúc khởi đầu, Tăng già là một giáo đồn Sa môn hòa hợp, các Tỷ kheo đều rất thanh tịnh và ai cũng đạt Thánh quả, nên giới luật là không cần thiết để đặt ra. Cho đến khi Tăng già đã lớn mạnh, thì sự xen tạp đã bắt đầu xảy ra, tất nhiên trong đó gồm luôn những điều sai trái. Do đó, đức Phật phải đặt ra những điều lệ lẻ tẻ “nên làm…” và “không nên làm…” để giáo dục đệ tử. Và phần duyên khởi đưa đến lời dạy của đức Phật theo từng trường hợp riêng lẻ lại không được sắp xếp một cách hệ thống. Riêng chỉ có bộ Pàtimokkha là tương đối hoàn chỉnh và hệ thống nhất, lại còn quy định những điều vi phạm. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu Phật học thì những tài liệu về nội dung của bản Pàtimokkha vào thời kỳ đầu của Tăng già vẫn chưa được tìm thấy. Và các nội dung liên quan tới việc khảo cứu chủ yếu dựa vào các sớ luận của luận sư Buddaghosa (Phật Âm), được viết vào khoảng cả ngàn năm sau khi các sự việc xảy ra. Mặc dù bộ Pàtimokkha rải rác trong các kinh được chính đức Phật đã từng nhắc nhở rằng, đây là nội dung tu trì căn bản nhất để từ đó các Tỷ kheo thăng tiến lên trên con đường giải thoát tối hậu.
Khi tu trì, giữ giới, chế ngự theo giới bổn Pàtimokkha thì sẽ làm cho Tăng già được ổn định vá hòa hợp. Vì chính Pàtimokkha là giới bổn dẫn dắt các Tỳ kheo tiếp cận được với giáo lý của Phật Đà, thúc liểm thân tâm, ngăn ngừa tam độc, đưa giáo đoàn vào một thể hòa hợp thanh tịnh nhằm tiến thẳng vào con đường Giải thoát, Giác ngộ. “ Pàtimokkha gồm tiếp đầu ngữ là Pàti, có nghĩa là hướng về, theo chiều hướng và Mokkha có nghĩa là Giải thoát. Theo đó, Pàtimokkha có nghĩa là sự đưa đến giải thoát.Từ Hán dịch Pàtimokkha là Giải thoát, Biệt giải thoát, Biệt biệt giải thoát, Tùy thuận giải thoát…đều là lấy gốc ở từ Mokkha và diển thêm nghĩa theo ý nghĩa của toàn bộ nội dung của Pàtimokkha. Ta có thể hiểu Pàtimokka là những hành vi, những học pháp đưa đến sự giải thoát”.
Cùng với ý nghĩa trên, đức Phật cũng đã nêu ra mười lý do thiết lập giới luật để các Tỷ kheo đệ tử tu tập. Mười lý do này còn được nhắc lại trong Tăng Chi Bộ kinh khi đức Phật trả lời trưởng lão Upàli (Ưu-bà-ly) về mục đích tuyên dạy Pàtimokkha của đức Phật. “ Này Upàli, đây là mười lý do khiến ta tuyên dạy Pàtimokkha. Mười lý do này là gì?
Để Tăng-già được mỹ mãn.
Để Tăng-già được ổn thuận.
Để kiềm giữ các Tỷ kheo khĩ kiềm giữ.
Để thiện Tỷ kheo được ổn thuận.
Để chế ngự các lậu hoặc (Àsava) trong hiện tại.
Để ngăn ngừa các lậu hoặc đời sau.
Để tạo tin tưởng cho những người ít tin tưởng.
Để xác tín cho những người có lòng tin.
Để chính pháp được vững bền.
Để phù trợ cho luật.
Này Upàli, đấy là mười lý do nhằm dạy dỗ các đệ tử của Như Lai và là mục đích tuyên dạy Pàtimokkha”.
Như vậy, việc thiết lập giới luật của đức Phật không ngoài mục đích lợi ích hữu tình, dẫn dắt chúng sinh vào nẻo đường Giải thoát. Điều này càng được rõ ràng hơn khi trong ý nghĩa của Pàtimokkha là Biệt giải thoát hay Xứ xứ giải thoát, Tùy thuận giải thóat. Biệt giải thoát hay Xứ xứ giải thoát là giải thoát từng phần; giữ giới nhiều thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải thoát ít. Tùy thuận giải thoát là giải thoát tùy thuộc vào quả hữu vi hay vô vi của người hành. “Giải thoát tiếng Phạn là Moksa, Mutti dịch là giải thoát, có nghĩa là lìa bỏ mọi trói buộc mà được tự tại. Cởi bỏ sự trói buộc của hoặc nghiệp, thoát ra khỏi khổ quả của tam giới”. Ngồi ra, còn một mục đích quan trọng hơn mà Thế tôn thiết lập giới luật là để cho Chính pháp thường trụ mãi giữa thế gian.
Đến đây ta thấy rõ rằng ý nghĩa thù thắng của giới luật là dẫn dắt chúng sinh ra khỏi sự ràng buộc khổ đau trong Tam giới và không mang một sự trói buộc, cố chấp, cứng nhắc nào như là giới điều mà hoàn toàn mang ý nghĩa tự nguyện. Kết quả của việc giữ giới là mang lại an vui hạnh phúc cho mình và cho người, tạo nên niềm tin cho kẻ khác, làm cho cuộc sống cộng đồng được hài hòa và an ổn. Và vì vậy nó đúng với tinh thần Từ bi và Trí tuệ trong toàn bộ hệ thống giáo lý mà đức Thế tôn đã tuyên thuyết. Bởi lẽ, khi tự thân người giữ giới được lợi ích an lạc và giải thoát đó là trí tuệ và mang đến cho kẻ khác niềm tin yêu hạnh phúc đó là từ bi. Chính điều này là nền tảng cơ bản để mang lại lợi ích thiết thực cho cuộc sống. Và đó cũng chính là tinh thần Tự giác, Giác tha và Giác hạnh viên mãn.
Hướng đi của giới là ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại và tương lai. Và giới cũng là bước đầu đi đến Thiền định nên cũng được gọi là “ly dục, ly bất thiện pháp”, mở đầu cho điều kiện chứng đắc thiền thứ nhất. Chúng là biểu hiện của đời sống phạm hạnh. Một Tỷ kheo an trú trong giới bổn Pàtimokkha là để ngăn ngừa các ác nghiệp, giữ gìn thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Trung Bộ Kinh VI ghi lại lời đức Phật dạy như sau: “Này các Tỷ kheo, hãy sống trong sự sở hữu giới hạnh, trong sự sở hữu Pàtimokkha. Hãy sống chế ngự với sự chế ngự của Pàtimokkha, trong sự sở hữu oai nghi chính hạnh, thấy được sự nguy hiểm của những lỗi nhỏ nhất, xử lý chúng một cách đúng đắn. Hãy tu tập trong học giới”.
Giới sau này được chia thành giới của bậc xuất gia, được cô đọng thành những pháp môn: “Sống thành tựu giới uẩn thanh tịnh, hộ trì các căn, có tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh giác, chính niệm tỉnh giác”. Và giới cho các bậc tại gia được ghi chép trong năm giới. Năm giới này được phân tích rộng thành mười hạnh.Và khi hành giả khéo hộ trì các căn trong việc hành trì giới luật thì sẽ mang đến một đời sống giới hạnh viên mãn. Đức Thế tôn đã dạy như sau: “ Này các Tỷ kheo, một Tỷ kheo thiện xảo trong tu trì giới luật thì có bảy điều. Thế nào là bảy? Vị ấy biết thế nào là phạm lỗi; vị ấy biết thế nào là lỗi nhỏ; vị ấy biết thế nào là lỗi nặng; vị ấy đầy đức hạnh và sống mà được chế ngự bởi Pàtimokkha, toàn hảo trong chính hạnh và oai nghi và tu tập trong học giới; Nếu muốn, vị ấy đắc Tứ thiền đưa đến an lạc trong hiện tại một cách dễ dàng, chẳng chút khó khăn nào;và do dứt lậu hoặc, vị ấy thể nhập tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu và vị ấy biết thể nghiệm ngay trong đời này. Này các Tỷ kheo, một vị thiện xảo trong giới luật thì có bảy điều như thế” . Vậy thì, một đời sống phạm hạnh đúng nghĩa thì theo như đức Thế tôn đã dạy là phải chính niệm tỉnh giác. Nghĩa là vị hành giả phải biết tàm quý, biết hổ thẹn và ăn năn trước những lỗi lầm mình đã tạo tác. Biết bày tỏ sám hối những điều mình đã vi phạm trước đại chúng. Có như vậy tâm mới được thanh tịnh và thuận tiện trên bước đường tiến tu đức hạnh đưa đến Định và Tuệ. Ngay cả bậc xuất gia phát tâm thuần chính có lúc cũng khởi phiền não, không thể tiết chế được mình mà phạm giới. Đây là chướng ngại lớn đối với việc tu tập Phật pháp. Điều này cần phải được hạn chế bằng giới luật. Người đã phạm giới thì buộc phải sám hối, để có thể trở lại thanh tịnh. Mặt khác, vị hành giả phải biết sống như thế nào mà không để cho sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc êm dịu có thể chi phối tâm của mình. Thì đó là nền tảng cơ bản để cởi bỏ mọi ràng buộc của uế trược mà thanh tịnh đi ra khỏi khổ đau. Làm được điều này thì như một người có Trí viên mãn Định và Tuệ vậy. Trong kinh Tương Ưng I, tr. 13 đức Phật dạy:
“Người trì giới có trí
Tu tập tâm và tuệ
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỷ kheo ấy thất triền”.
Đến đây, ta thấy được rằng giới đóng một vai trị quan trọng và tối cần thiết trong hệ thống giáo dục Phật giáo. Rải rác trong các kinh đều có đề cập nhiều đến vị trí và vai trị của giới. Đặc biệt là Trường Bộ Kinh và Trường A Hàm. Điển hình là kinh Phạm Võng (của Nikàya) và kinh Phạm Động của Trường A Hàm xác định rất rõ vị trí của giới trong hệ thống giáo lý Phật Đà. Giới là bước khởi đầu của năm bước đi: Giới, Định, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến. Như vậy, nền tảng của bước khởi đầu là giới, nếu đi sai lầm hoặc rơi vào giới cấm thủ thì sẽ bị lạc đường và không thể thực hiện bốn bước tiếp theo được.
Qua đến Bắc tạng (Đại thừa) thì giới mang ý nghĩa rộng rãi và bao la hơn nhiều. Giới bao gồm cả Định và Tuệ: trong Giới có Định, trong Định có Tuệ…Biệt giải thoát, giới ( hay Nhiếp luật nghi giới) và Định cộng giới là thuộc Hữu lậu giới, Đạo cộng giới thuộc về Tuệ giải thoát hay vô lậu giới.
Nhìn chung, ta thấy có sự phân loại hơi khác nhau trong trình bày về giới học của Bắc tạng và Nam tạng. Nhưng khi suy xét thật kỹ thì rõ ràng không có sự mâu thuẫn thật sự nào cả. Và con đường tối hậu chung nhất của chúng là dẫn dắt hành giả vào nẻo đường Giải thoát, Giác ngộ. Đó mới chính là hạnh phúc thật sự và miên viễn chính trên nền tảng thiết thực từ giới luật mang lại. Cho nên mọi con đường đi đến cứu cánh không ra ngoài giới. Xác chứng điều này, trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Thế tôn dạy : “Giới là nền tảng của bốn Niệm xứ, bốn Chính cần, bốn Như ý túc, Năm căn, Năm lực,  Bảy Bồ đề phần và Tám Thánh đạo phần. Ví như đất là nền tảng, không có nó thì các loại động vật không thể di chuyển. Cũng thế, không có Giới thì ba mươi bảy phẩm trợ đạo tu tập không thể viên mãn được.”
. Ý Nghĩa Thù Thắng Của Giới Trong Tăng Đoàn:
Chủ trương của hầu hết các hệ thống giáo dục đương thời là đào tạo con người trên ba phương diện: trí dục, đức dục và thể dục nhằm tạo ra một mẫu người toàn diện theo cách nhìn thông thường của thế gian. Và ở một mức độ nào đó ta thấy rằng nếu có một người viên mãn cả ba phương diện này là đã kiện tồn một mẫu người để có thể đáp ứng được nhu cầu cấp thiết cho sự sống. Tuy nhiên, vấn đề sinh, lão, bệnh, tử, phiền não, khổ đau vẫn chưa giải quyết được và hãy còn đó. Một nền giáo dục mà chưa giải quyết được nỗi khổ đau cho nhân loại, chưa mang lại hạnh phúc thiết thực và dài lâu cho chúng sinh thì thử hỏi nền giáo dục đó đã toàn diện chưa?
Chúng ta và tất cả mọi người sống giữa cuộc đời hầu như ai cũng mưu cầu cả. Mưu cầu để được có cái ăn cái mặc, mưu cầu để được hạnh phúc, mưu cầu để được danh lợi, mưu cầu để có sức khỏe, mưu cầu để được bình an…Nhưng những mưu cầu này là lòng tham ái mang lại cho nên dẫu được hay không được thì con người vẫn bị khổ đau. Nếu mong cầu không được mà khổ đau đó là lẽ đương nhiên. Nhưng mong cầu được rồi mà vẫn bị khổ đau, đó là vấn đề vẫn còn nghi ngờ và suy tư của rất nhiều người trong chúng ta. Là một người Phật tử, là một người am hiểu giáo lý Phật Đà thật sự thì vấn đề này thực ra không cần phải nghi ngờ hay suy tư gì nữa. Vì rằng đó là sự thật, một sự thực phủ phàng mà những ai còn mong cầu, còn tham ái đều phải chấp nhận. Trong Kinh đức Phật dạy rằng những cái hạnh phúc mà chúng sinh đạt được thì không thực có và huyễn hoặc mỏng manh như chùm bọt nước, như áng mây chiều, như tia điện chớp, như hạt sương mai…chợt đến, chợt đi, chợt có, chợt mất vì tất cả đều phải chịu sự chi phối của định luật vô thường. Cho nên khi có và khi mất là chúng ta đều khổ đau.
“Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán.”
Đó là bài kệ tụng trong kinh Kim Cang mà Thế Tôn đã tuyên thuyết. Chúng ta phải khởi lên phép quán như thật về vạn pháp nhằm nội tĩnh, nhất tâm mà nhàm chán về chúng để rồi ly dục, ly pháp bất thiện mà được an vui hạnh phúc. Mà phép quán, phép tu tập này là gì? chính là ba môn học đưa đến vô lậu: Giới học, Định học và Tuệ học. Như vậy, đức Phật tuy không thiết lập ba phạm trù như ngôn ngữ hiện đại: trí dục, đức dục và thể dục, nhưng nội dung giáo dục Phật giáo đã bao gồm đầy đủ và toàn diện từ trên hai ngàn năm trước.
Thật vậy, giáo dục Phật giáo chính là giáo dục giới, định, tuệ. Chính nền giáo dục này mới có thể đem lại hòa bình và hạnh phúc thật sự lâu dài cho loài người và cho cả thế giới. Vì chúng có công năng điều phục những tư duy, những ý thức sai lầm trong mỗi con người. Tư duy và ý thức sai lầm đó chính là vô minh, là tham ái và là nguyên nhân đưa đến khổ đau. Đức Phật dạy rằng khổ đau hay hạnh phúc là do chính con người tạo ra chứ không phải từ sự thưởng phạt của đấng Toàn năng hay Thượng Đế nào cả. Cho nên, giáo dục là giáo dục con người chính nó, giáo dục con người tận diệt nguồn gốc của ái, thủ tức là bỏ ác hành thiện để được an vui hạnh phúc. Chứ không phải dạy đấng Toàn năng ban phúc phạt khổ. Trong kinh Pháp Cú đức Thế Tôn có dạy:
Ý dẫn đầu các pháp
Ý là chủ, ý tạo
Nếu với ý ôi nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo.(Pháp cú 1)
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng không rời hình.(Pháp cú 2)
    Vậy nên, vấn đề đặt ra ở đây chính là học tập và tu trì theo các thiện pháp mà đức Thế Tôn đã dạy để đoạn tận tam độc tham lam, sân hận và si mê đã ngấm ngầm ngủ sâu trong mỗi con người nhằm mang lại đạo quả Giải thoát.
Tu tập các thiện pháp, trước hết theo Phật dạy là giữ gìn các giới cấm. Giới, như đã được trình bày là được chia ra nhiều loại hay nhiều cấp bậc khác nhau: năm giới, mười giới, hai trăm năm mươi giới hay nhiều hơn nữa. Nhưng nhìn chung, năm giới vẫn là căn bản, vẫn là chuẩn mực đạo đức nói chung cho toàn thể xã hội lồi người.
Thứ nhất, giới không sát sinh. Ta biết rằng tất cả chúng sinh đều có mạng sống, nên đức Phật dạy mọi người không được giết và không bảo người khác giết. Yêu cầu phải bảo vệ, phải trân trọng giá trị thiêng liêng của sự sống, đối với lồi người cũng như mọi lồi. Bảo vệ, tôn trọng, nâng cao giá trị của sự sống đó là khái niệm trung tâm của đạo đức Phật giáo. Đồng thời đó cũng là tính từ bi và bình đẳng trong hệ thống giáo lý Phật Đà.
Nếu người người, nhà nhà ai cũng giữ giới không sát sinh thì đất nước, thì thế giới khỏi phải lo sợ chiến tranh, khỏi phải lo sợ khủng bố. Và khi ấy đao kiếm, bom đạn sẽ trở thành vô nghĩa.
Thứ hai, giới không lấy của không cho. Sống giữa cuộc đời ai cũng có nhu cầu về vật chất để đáp ứng cho sự sống. Ta cũng có nhu cầu, người cũng vậy sao ta lại lấy cái của người không đồng ý! Đức Phật dạy, cho đến nhỏ nhoi như cây kim ngọn cỏ nếu người không cho thì không được lấy.
Và thuộc phạm vi giới này không chỉ đơn thuần là những hành vi trộm cắp lộ liễu, mà còn gồm cả những hành vi như buôn lậu, tham nhũng, hối lộ, lừa đảo, lật lọng trong buôn bán để kiếm những món lời bất chính, lạm dụng hay chiếm dụng của công, trốn thuế trốn nợ…đều thuộc về phạm vi trộm cắp. Khi ta nhìn rộng hơn, giới này đức Phật dạy không những không trộm cắp mà còn phải biết bố thí, biết giúp đỡ, tương thân tương ái, biết đem đến niềm vui cho kẻ khác…Mặt khác là phải biết tri túc, sống biết đủ, bằng lòng với số tài sản của mình có được nhờ lao động của bản thân, không nghĩ cách làm giàu thêm bằng cách làm ăn lừa lọc không chính đáng, phi đạo đức.
Như thế, nếu ai ai cũng giữ giới không lấy của không cho thì mọi người khỏi phải lo sợ giành giật cướp bóc, khỏi phải lo sợ chiếm đoạt lừa lọc. Những trò bỉ ổ khia sẽ trở thành vô nghĩa, mọi người không phải canh giữ, không phải đậy che. Khi đó, con người ta sẽ xích lạ gần nhau hơn, sẽ thấy an ổn hơn và hạnh phúc hơn.
Thứ ba, giới không tà dâm. Trong xã hội hiện đại, giới không tà dâm này lại càng được nỗi bật hơn về mặt giá trị và càng cần phải được áp dụng một cách triệt để hơn. Chúng ta thấy rằng, ngày nay những căn bệnh hiểm nghèo đồc hoành hành khắp đó đây do đời sống tình dục bừa bãi gây ra. Chúng đã trở thành một nỗi lo lớn nhất và là nỗi lo chung của toàn nhân loại. Đặc biệt trong đó là AIDS, một căn bệnh hiểm nghèo chưa có thuốc trị và đã đe dọa nghiêm trọng đến mạng sống và hạnh phúc của con người.
Mặt khác, chính đời sống vi phạm tiết hạnh của vợ hoặc chồng của người khác đã cướp đi hạnh phúc của gia đình mình cũng như gia đình họ, làm cho gia đình ly tán, con cái chia lìa. Chúng ta cũng thường thấy giữa xã hội có biết bao cuộc ghen tuông do đời sống tiết hạnh bất chính gây ra, rồi hậu quả của nó là đâm chém, vợ chồng ly dị. Con cái cũng vì đó mà cù bất cù bơ rồi hư hỏng.
Do hậu quả xấu của nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền tảng đạo đức xã hội cũng như đời sống phạm hạnh đi đến giải thoát. Nên đức Phật dạy người tại gia thì phải một vợ một chồng, còn người xuất gia thì toàn đoạn dâm dục.
Thứ tư, giới không nói dối. Đức Phật dạy rằng giới này gồm cả không được nói lưỡi hai chiều, không được nói lời thêu dệt, không được nói lời thô ác.
Chúng ta biết rằng, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người và chỉ có con người mới có ngôn ngữ. Ai cũng muốn được tin tưởng, ai cũng muốn được hịa thuận, ai cũng muốn được lợi ích… thế nên, ta không được đem lời nói dối trá, lời nói thô ác, lấy trái nói phải lấy phải nói trái, lấy không nói có lấy có nói không…thêu dệt, ngược xuôi để cư xử với nhau. Người xưa thường nói: “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.” Lựa lời mà nói tức là chọn những lời nói chân thật, nhẹ nhàng, vui vẽ, hòa khí, lợi mình lợi người để đối xử với nhau.
Một lời nói có thể làm cho đất nước hưng thịnh, nhưng một lời nói cũng có thể làm cho đất nước điêu tàn, chiến tranh (Nhất ngôn hưng bang, nhất ngôn tán bang). Và những điều này đã được đức Phật chỉ dạy cách đây hơn hai nghìn năm. Ngài thấy được sự nguy hại của lời dối trá khiến người ta đau khổ đến cùng tận địa ngục và từ lời nói chân thật mang lại lợi ích, an lạc, hạnh phúc vô cùng cho cả nhân loại. Cho nên Ngài dạy: không được nói lời dối trá mà phải nói lời chân thật.
Thứ năm, không được uống rượu. Giới này gồm cả những điều không được dùng những chất kích thích, những loại thuốc hưng phấn làm mê man đầu óc con người.
Trong kinh Thiện Sinh đức Phật tuyên bố: “Này gia chủ, đam mê các loại rượu có sáu nguy hiểm: tài sản bị tổn thất, hay gây tranh cãi, mắc nhiều bệnh tật, danh dự thương tổn, quần áo hở hang để lộ âm tàng, trí lực bị tổn hại. Này gia chủ, nghiện các loại rượu có sáu nguy hiểm như vậy.”
Giới không uống rượu mặc dù nằm sau nhưng có thể quan trọng hơn cả. Vì một người say rượu thì tâm trí bị mê mờ nên rất dễ phạm bốn giới kia.
Để cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội được văn minh, được hạnh phúc, đức Phật dạy không được uống rượu, không được dùng các chất kích thích làm say sưa, làm mê mờ tâm trí là vì thế.
Tiếp theo là Định. Nhân giới mà sinh Định, nhờ công năng giữ giới mà tâm hồn được định tĩnh. Và nhờ Định mà trí tuệ được khai mở. Và nơi đây cũng chính là lúc mà con người:
- Ý thức được những khổ đau do sát hại gây ra mà nguyện không sát hại.
- Ý thức được những khổ đau do sự lường gạt, trộm cướp và bất công gây ra mà nguyện không vi phạm.
- Ý thức được những khổ đau do tà dâm gây ra mà nguyện không tà dâm.
- Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chính niệm gây ra mà nguyện không nói dối.
- Ý thức được những khổ đau do dùng chất ma túy và những chất kích thích làm say sưa gây ra mà nguyện không dám dùng.
Như vậy, năm giới của Phật giáo mang một ý nghĩa thù thắng cho tất cả mọi lồi. Mang lại sự cân bằng trong sinh thái, tạo nên một nếp sống trật tự an bình trong xã hội, làm cho mọi người mọi lỗi tin tưởng nhau và xích lại gần nhau hơn. Năm giới của Phật giáo như thế có giá trị vượt thời gian và không gian. Và bất cứ ở đâu và bất cứ thời đại nào, nếu con người còn tham ái là còn cần sự chế ngự của năm giới. Vậy nên, năm giới này là nguyên tắc đạo đức căn bản để làm người, hòng xây dựng một xã hội trật tự ổn định và mọi người được sống hạnh phúc.
Trong kinh Di giáo đức Phật dạy rằng: “Chế tâm nhất xứ vô sự bất biện”. Khi tâm được chế định vào một chỗ thì trí tuệ được khai thông. Và khi trí tuệ được khai thông chính là khi con người nhận chân được giá trị thực tại của cuộc sống. Rồi từ đó con người hết hoang mang, hết lo sợ khi phải đối diện với những già, những bệnh và những chết, và như thê khổ đau sẽ vắng mặt. Con đường giáo dục như thế có chăng chỉ là con đường giáo dục của Phật giáo và là con đường giáo dục mang tính tồn diện là như thế.
















CHƯƠNG III.
A.KẾT LUẬN.
Con người là đối tượng, là trung tâm điểm để bàn bạc, nghiên cứu và tìm hiểu của hầu hết các chủ thuyết, tôn giáo…Cùng với tất cả những vấn đề kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng…cũng đều do con người mà có. Và suy cho cùng cũng không ngoài mục đích phục vụ cho lợi ích cũng như hạnh phúc của con người.
Vậy thì như đã bàn, con người là do duyên năm uẩn tập hợp mà thành. Và con người cũng chính là kẻ thừa tự tất cả những hành vi và nghiệp lực của mình cả trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Tất cả mọi vấn đề hạnh phúc hay khổ đau đều do con người tạo ra và thưởng phạt ngay cho chính cuộc đời mình. Ngồi con người ra không có bất cứ Thượng đế hay thần linh nào cho phép con người lên thiên đàng hay dẫn xuống địa ngục. Như trong Khế Kinh đức Phật đã dạy:
“Tự ta gây ác nghiệp
Tự ta nhiễm cấu trần
Tự ta tránh ác nghiệp
Tự ta thanh tịnh tâm
Nhiễm tịnh do ta cả
Không ai thanh tịnh ai.” (Pháp cú 165)
Xác nhận rằng, ta là kẻ thừa tự của nghiệp thì chính giáo dục Phật giáo sẽ là nơi khơi mở cho con người một tầm nhìn thiết thực và toàn diện về giá trị và thái độ sống. Từ đó con người cải ác hành thiện, lợi mình lợi người nhằm đưa tới sự lắng dịu các dục vọng và sân hận, đưa đến sự đoạn tận của vô minh, phiền não và khổ đau. Đạo Phật như thế, phải được hiểu là con đường sống, là một nếp sống mang lại thanh bình, hạnh phúc thật sự cho cá nhân, cho tập thể và cho cả cộng đồng.
Và với giáo lý vô ngã, Phật giáo chủ trương một nền giáo dục vô ngã. Tác giả thiết nghĩ rằng, nếu được chấp nhận thì con đường giáo dục như thế là toàn diện, nhân bản và trí tuệ. Do vì vô ngã nên mới có thể có một nền giáo dục cho cả mọi người, của mọi thời đại. Và đến đây, chúng ta không cần bàn luận hay tranh cãi gì nữa, chỉ có thể chiêm nghiệm tư duy và tu tập nhằm mang lại cứu cánh tối hậu. Điều này đấng Thiện thệ của chúng ta cũng đã chỉ dạy trong Kinh Tương Ưng: “Này các Tỷ kheo, Ta không tranh chấp với đời, chỉ có đời tranh chấp với ta. Này các Tỷ kheo, người nói pháp không tranh chấp với một ai ở đời” (Tương Ưng III, 165. sđd). Như vậy, đức Thế tôn đã dạy cho chúng ta một tầm nhìn vô tiền khống hậu, một tầm nhìn mang đậm bản sắc của giá trị thực tại. Vì như chúng ta biết, khi ta chấp nhận sự tranh chấp, chấp nhận sự tranh luận, thì theo logic học trả lời tức là chấp nhận cách đặt vấn đề của người khác. Và như thế ta đã đưa vào thế tự chống đỡ. Trong một mức độ nào đó là ta đã tự đi ra khỏi chỗ đứng của mình, và tự từ bỏ lập trường từ bỏ phương pháp đặc thù của mình. Mặt khác, một nền giáo dục tâm linh thiết thực giúp con người đoạn tận khổ đau trong tận cùng gốc rễ thì không cần phải tranh luận, mà cần ở sự cứu kính. Nghĩa là dạy con người phải tự chiến thắng mình bằng cách đọa tận gốc rễ những tham lam, sân hận và si mê để hết khổ đau. Vì chính tam độc này là nguồn cội, là căn nguyên của mọi tội khổ. Khi ta nhìn thực tại với lòng tham ái, thì chúng không cho ta được lợi ích gì mà chỉ cho ta khổ đau. Và khi ta cởi bỏ lòng tham ái để nhìn vạn pháp, thì thực tại vẫn còn đó, vẫn trôi chảy nhưng khổ đau thì lại vắng mặt. Ta chọn cái nào đây? Chỉ một chút tham ái là người mê. Nhưng gạt bỏ tham ái là người trí, đây là kẻ đã tự thắng mình. Và chiến thắng như thế, theo đức Phật đó là một chiến công oanh liệt nhất, lẫy lừng nhất trong tất cả các chiến trường. Mở ra một thế giới an bình, chúng sinh an lạc và hạnh phúc. Thế giới Ta bà ngũ trược trở thành cõi Tịnh độ ngay bây giờ và tại đây. “Hận thù diệt hận thù, không bao giờ có được. Tình thương diệt hận thù, là chân lý ngàn thu.” Một câu Kinh pháp cú đã trở thành bài học muôn thuở là như thế.

B.TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Thích Minh Châu dịch-Kinh Tương Ưng Bộ I, II, III, IV, V- Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam 1993.
- Thích Minh Châu dịch-Tăng Chi Bộ Kinh I- Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam- 1996.
- Thích Minh Châu dịch-Trung Bộ Kinh I, II, III- Viện Nghiên cứu Phật Học Việt Nam 1992.
- Thích Minh Châu dịch-Kinh Trường Bộ I-Viện nghiên cứu Phật Học Việt Nam 1996.
Thích Minh Châu -Ch ính Pháp Và Hạnh Phúc- NXB Tôn Giáo 2001.
- Thích Minh Châu-Hãy Tự Mình Thắp Đuốc Lên Mà Đi-Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam-1998.
- Đinh Văn Đỗ- Giáo Dục Cộng Đồng-q.1- Kiến Tạo.
- Lâm Ngữ Đường-Tinh Hoa Xử Thế-NXB Đồng Nai 1996.
- Nhiều Tác Giả-Giáo Dục Phật Giáo Trong Thời Hiện Đại-Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam-NXB Tp. Hồ Chí Minh.
- Thích Nữ Trí Hải chuyển dịch-Thanh Tịnh Đạo-Buddhaghosa- NXB Tôn Giáo 2001.
- Nhất Hạnh-Hiệu Lực Cầu Nguyện- Lá Bối Xuất Bản.
- Nguyên Hồng-Giáo Dục Học Phật Giáo- NXB Tôn Giáo. Thích Phước Sơn biên           soạn-Thanh Tịnh Đạo Luận Toản Yếu- NXB Tôn Giáo 2004.
- Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Sinh Huy-Giáo Dục Học Đại Cương- NXB Giáo Dục 2000.
- Thích Thiện Siêu-Vô Ngã Là Niết Bàn- NXB Tôn Giáo 2000.
- Thích Thiện Siêu-Ngũ Uẩn- Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Huế.
- Lê Văn Siêu-Văn Minh Việt Nam- Nam Chi Tùng Thư 1964.
- Thích Phước Sơn biên soạn-Thanh Tịnh Đạo Luận Toản Yếu-NXB Tôn Giáo 2004.
- Tuệ Sỹ-Thắng Man Giảng Luận- Ban Tu Thư Phật Học.
Tuệ Sỹ-Triết Học Về tính Không- An Tiêm xuất bản-Sài Gòn
- Thích Chân Thiện-Lý thuyết Nhân Tính Qua Kinh Tạng Pàli- NXB Tp. Hồ Chí Minh.
- Thích Chân Thiện-Phật Học Khái Luận- NXB Tp.Hồ Chí Minh.
- Thích Chân Thiện-Tìm Vào Thực Tại- NXB Tp. Hồ Chí Minh 1999.
- Thích Chân Thiện-Tăng Già Thời Đức Phật -NXB Tôn Giáo 2000.
- Thích Ấn Thuận-Phật Pháp Khái Luận- NXB Đại Học và Giáo Dục Chuyên Nghiệp 1992.
- Linh Thụy chuyển ngữ-Đạo Lý Cho Thiên Kỷ Mới-Dalailama- Ban Tu Thư Phật Họ.
- Hồng Xuân Việt- Nhân Cách Trước Đã-NXB Thanh Niên 1999.
_________________________