Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

Một Đặc Trưng Rất Riêng Của Phật Giáo

Một Đặc Trưng Rất Riêng Của Phật Giáo

05-11-2012 11:19:56 | lượt xem : 90
Điểm chung của các tôn giáo Thần khải là đức tin nơi một Đấng sáng thế, trong khi Kinh Pháp Cú (Dhammapada) một trong những kinh phổ biến nhất của Phật giáo, lại mở đầu bằng câu: ” tâm có trước các sự vật, tâm thống quản chúng sáng tạo ra chúng”. Điều đó đủ cho thấy cốt lõi và đặc trưng rất riêng của đạo Phật là con đường dẫn vào bên trong để gặp lại Bản Tâm của chính mình.
 
a/ Phật giáo và ‘sáng tạo luận’  (creationism) – Trong rất nhiều sách viết về Phật giáo và các tôn giáo Tây  phương khác bằng ngôn ngữ Tây phương, một số tác giả Tây phương vẫn dùng những khái niệm tôn giáo theo truyền thống phương Tây để đánh giá các tôn giáo này. Ví dụ, Phật giáo bị xem là “vô thần” bởi vì Phật giáo không giải thích được nguồn gốc của vũ trụ bằng một “sáng tạo luận”, theo đó thế giới này được tạo ra bởi một “Đấng Tối Cao” cai quản thế gian theo ý muốn độc đoán chuyên quyền của riêng mình mà loài người thấp hèn không được quyền thắc mắc hay khiếu nại gì cả.
 
Thật ra sáng tạo luận chỉ là một trong những giả thiết (chứ không phải là giả thiết duy nhất) giải thích cho nguồn gốc sự sống và đây là đức tin nền tảng của các tôn giáo xuất phát từ Trung Đông (Middle East). Trong khi đó, khoa học và các tôn giáo Đông phương đưa ra các giải thích khác về nguồn gốc vũ trụ và đời sống. Một khi ý thức được bối cảnh văn hoá Trung Đông của đức tin này, chúng ta không thể nào chấp nhận cái nhận xét cho rằng Phật giáo là “vô thần” chỉ vì Phật giáo không giải thích nguồn gốc thế giới và con người theo cùng cách với các tôn giáo Trung Đông ấy. Nhận xét như thế cũng giống như nói rằng “anh không có những giá trị đạo đức giống tôi thì anh là đồ vô đạo đức” hoặc như kiểu hỏi “anh (chị) có đạo không?” – Đưa đến phản ứng: Thưa “Tôi không có “đạo”, tôi là người lương” – Một người chỉ cần có nửa khối óc cũng thấy nhận xét trên là không công bằng.
 
Một trong những lý do mà Phật giáo và một số hệ thống triết học Ấn Độ giáo không chấp nhận sáng tạo luận, chỉ vì họ có lập luận triết học tiêu biểu như sau: Không có một sinh thể (being) nào mà mọi mục tiêu đã được thành tựu lại vẫn còn cần phải hành động, bởi vì mục tiêu của hoạt động là để thỏa mãn một dục vọng nào đó. Ý là: nếu như một “Thượng đế” thì đấng này phải toàn hảo và đã toàn hảo thì đương nhiên là không có dục vọng nào cần phải thành tựu nữa. Vậy Thượng đế sáng tạo để làm gì? Cần có con người cho đỡ cô đơn chăng? Hay để hưởng thụ một chút quyền lực? Vả lại, về mặt triết học, nếu như quy mọi sự về một nguyên nhân tối hậu, thì cái gì là nguyên nhân của nguyên nhân tối hậu đấy?
 
Thử hỏi: Thượng đế hay Đấng tạo thế toàn năng ấy, có thể tạo ra một khối lượng lớn đến nỗi chính mình không cất lên nổi chăng? Và xin hỏi rằng: đặc tính của Thiên Chúa là năng động hay bất động? Nếu là năng động thì phải liên tục năng động, như vậy Thượng đế đương nhiên là phải thường hằng (eternal). Thế thì tại sao Thượng đế lại “không làm gì cả” từ hàng tỷ tỷ năm mãi cho đến cách đây khoảng sáu ngàn năm (theo Do thái giáo) mới hoạt động (tạo thế), và vũ trụ lại chỉ hiện hữu trong vài ngàn năm rồi tận thế vĩnh viễn?
 
Đó là những lý luận tiêu biểu của một bộ phận tư tưởng Ấn Độ, liệu truyền thống Trung Đông có sẵn lòng dựa trên lý luận này để phán xét vũ trụ quan của mình hay không? Tất nhiên là không, và họ không cần phải làm như thế.
 
Cho nên, trí giả Tây Phương cũng không thể dùng các phạm trù văn hóa có nguồn gốc Trung Đông kia để phán xét các tôn giáo Đông  Phương. Bởi vì, ở mặt phương pháp luận, dùng những khái niệm “hữu thần”,”vô thần” để phán xét Phật giáo tự chính nó đã phi lý rồi. Rõ ràng là như vậy,nhưng,thật khó tránh khỏi. Bởi vì, đối với những trình độ trí thức còn giới hạn, để hình dung được đối tượng nào đó, ở đây là Phật giáo, người ta cần phải cố xếp đối tượng đó vào bảng phân loại nhị phân của truyền thống triết học Tây Phương quen thuộc với họ. cũng may là, với sự tiến bộ của ngành tôn giáo học, ngày nay đã có một số ít nhà nghiên cứu chủ trương rằng truyền thống Phật giáo có đủ một lich sử lâu để chúng ta nghiên cứu  Phật giáo bằng chính lịch sử Phật giáo. Quan điểm này đánh dấu một bước tiến trong học thuật về Phật giáo ở Tây Phương. Và cũng  nên công bằng mà ghi nhận rằng :Trong nhiều sách,sau khi phân tích và tìm hiểu cặn kẽ giá thuyết Phật,nhiều học giả Tây Phương cho rằng đạo Phật là một liệu pháp thực tiễn: tất cả đều nhằm đến việc chấm dứt các ‘khổ’. Đồng thời, họ cũng hiểu rằng , với Đức Phật, việc thực hành siêu nghiệm (dựa trên đức tin Đấng siêu nhân, không kiểm nghiệm được, nào đó),nếu có đóng góp được gì cho mục tiêu” chấm dứt các ‘khổ’”, thì sẽ được tin cậy; thế nhưng chẳng những nó không có ích dụng gì cả, mà thường xuyên gây trở ngại (nên biết, tư tưởng tuyệt đối xấu không hề có trong đạo Phật).
 
b/ Bản chất của tôn giáo với Phật giáo – Như ai lấy  đều công nhận religion (Việt dịch: tôn giáo) lấy sự kết hợp giữa Thần( God, Thượng đế) và Người làm nền tảng. Nhưng Phật giáo không thừa nhận có một đấng “Tạo Vật Chủ”, nhất là Phật giáo nguyên thủy, nên không có một khái niệm nào về sự quan hệ giữa Thần  và Người. Phật giáo Tịnh độ, tuy có căn cứ vào sức bản nguyện  của Phạt A Di Đà để thành lập ” cứu độ quan ”, nhưng quan niệm này không thể được coi là một hình thức quan niệm về ”liên hệ giữa Thần và Người”. Do đó, nhiều học giả Tây Phương và Nhật Bản cho rằng Phật giáo,đặc biệt là Phật giáo nguyên thủy, từ bản chất không phải là tôn giáo.
 
Phía khác,lại có một số học giả cho rằng Phật giáo là khoa học. dĩ nhiên nhận xét này đã đứng trên lập trường cho rằng tôn giáo là sự “quan hệ giữa Thần và Người” để quan sát Phật giáo;và đương nhiên chúng ta cũng không thể chấp nhận. Song có điểm rất thú vị là trong số các học viên Tây Phương lại có người, cũng đứng trên lập trường ấy để nhận định Phật giáo,và cho rằng” Phật giáo là khoa học chân chính, cho nên Phật giáo cũng là một tôn giáo chân chính”.
 
Lại mới đây ,trong  bài khảo luân nhan đề ”Phương diện tôn giáo và đạo đức của Phật giáo”, ông Paul Dalph nói :”Một tôn giáo là đưa toàn bộ yêu cầu nhân quả thực hiện ngay trong thâm tâm của mình”, đó là dựa vào phương pháp khoa học để luận chứng chân lý  của Phật giáo, một nhận xét tuy đúng nhưng vì quá thiên trọng  phương diện lý trí, cho nên không hề thừa nhận có cảnh giới thần bí nào. Dù sao tì nhận xét này cũng không khỏi có điểm không phù hợp  với Phật giáo.
 
Vây,nói cho cùng,thì Phật giáo có phải là một tôn giáo (religion)không? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần phải xét đến nguồn gốc cũng như bản chất của những đòi hỏi tôn giáo-Về nguồn gốc của tôn giáo,giữa các học giả tuy có nhiều quan điểm khác nhau,nhưng nếu đứng về phương diện tâm lý là nhận xét tì tôn giáo phát sinh từ nhu cầu đáp ứng những hiện tượng tinh thần của con người.Do đó ta không thể tìm nguồn gốc của tôn giáo các thần linh, mà phải tìm nó ở tinh thần của con người.
 
Các điều kiện sinh tồn của con người tuy nhiều nhưng,tựu trung, có hai điều kiện nổi bật nhất là: điều kiện tự nhiên và điều kiện tinh thần. Nhưng, về mặt tác dụng, tính chất của hai điều kiện này hầu như hoàn toàn tương phản nhau. Điều kiện tự nhiên cũng là  các quy luật tự nhiên, mà dù muốn hay không người ta cũng buộc phải tuân theo. Còn điều kiện tinh thần lại lấy ước ngyện tự do làm đặc tính;có khi vì muốn được triệt để tự do mưu đò chống lại các quy luật tự nhiên.Chẳng hạn như, con người sinh ra tất có phải chết,đó là quy luật tư nhiên;ấy thấy mà ước vọng tự do của con người muôn sống mãi không chết. Như vậy trong sinh tồn của kiếp người, ta thấy chứa đựng một mâu thuẫn không thể tránh khỏi. Do đó, trong cuộc sống hằng ngày,khi nào hai điều kiện trên thỏa hiệp mà điều cần tự do chiếm phần ưu thắng, thì cuộc sống đó được nhận là có hạnh phúc. Nhưng khi đến một hòa giả nhất triệt để giưã hai điều kiện ấy là một việc không thể. Từ đó, người ta tìm tòi và sáng tạo ra những phương pháp thần bí nhằm hóa giải mâu thuẫn đó của cuộc sống-đây chính là mầm mông của tôn giáo. Mà thống cảm về mâu thuẫn đó càng tăng,  nếu như lí trí của người ta càng mạnh; và sức phản tỉnh của người ta càng mạnh chừng nào  thì thống cảm  ấy cũng mạnh chừng nấy; rốt cuộc những quan điểm yềm thê,mất mãn,thất vọng đối với cuộc đời cũng do đó mà phát sinh.Như vậy, một bên là yêu cầu tự do,lấy sự tự do tuyệt đối,lấy tự do tuyệt đối và sự vinh quang tuyệt đối làm thuộc tính,thậm chí còn mong kéo dài sự sống đến vô hạn;ddoonhf thời ,nhìn lại cuộc sống hiện thực trói buộc, mất tự do càng cảm thấy mất mãn,khổ não,vì thế mà nảy sinh ra yêu cầu giải thoát.Và,hai phương diện của cuộc sống:một mặt đối với khổ và ước vọng thoát khổ;mặt kia,bằng phương pháp thần bí do cái tâm mong cầu của con người tìm ra,nhằm đạt được một sự điều hòa, đó chính là nguồn gốc của tôn giáo.
 
Còn làm thế nào để thỏa mãn yêu cầu đó? Đây chính thực là vấn đề căn bản của tôn giáo. Về điểm này,tuy có nhiều đẳng cấp và chủng loại,nhưng loại tầm thường nhất là hòa giải mâu thuẫn,thỏa mãn yêu cầu, mà kẻ có thể đem lại những điều kiện đó phải là một tồn tại vượt trên loài người,tức là Thần hay tưởng tượng ra nhiều Thần do nhiều phương pháp (cầu đảo,đức hạnh,tín ngưỡng ,mông tưởng…tức ‘duy tưởng’/idealist)để cầu xin sự phù hộ nhằm đạt mục đích.nghĩa là, trên thế gian này,ngoài sự tồn tại của nhân loại,còn phải có một hoặc nhiều đâng thiêng lieng lắm giữ chìa khóa của tự do và của tự nhiên. Nếu con người biết chiều theo ý muốn của đấng thiêng liêng ấy thì sẽ được giải thoát, được tự do. Căn cứ theo tín ngưỡng này, đấng thiêng liêng đã có đủ uy lực,có thể hoán chuyển tất yếu (fatalism) thành tự do. Nói cách khác, đấng thiêng ấy phải có phép lạ đó khi con người thành khẩn cầu xin.
 
Và, bất luận xưa hay nay,đây là hình thức tôn giáo thịnh hành nhất. Cho nên người ta định nghĩa tôn giáo là sự kết hợp hay quan hệ giữa Thần và Người. Thế nhưng chúng ta cần ghi nhận rằng đó chỉ là một hình thức tôn giáo, chư không nên cho nó là một điều kiện tất yếu của tôn giáo. Vì,như nói trên, nguồn gốc của tôn giáo là  yêu cầu kết hợp giữa”cảm nhận mất tự do”và” mong cầu giả thoát”.
 
Và, nếu bằng chi thức co được từ kinh nghiệm,nhận thấy rằng các thần thánh  không thể thỏa mãn yêu cầu tôn giáo, mà chính tôn giáo có thể thỏa mãn,thì Phật giáo là một tôn giáo. Thật vậy,nếu tôn giáo bắt nguồn từ sự mâu thuẫn bất hợp lý của nhân sinh, mà cố gắng hợp lý hóa những yếu tố bất hợp lý đó bằng một Nhân Cách Thần toàn năng toàn trí thì không thể toại ý được. Do đó mà Đức Phật đã không  coi trọng phương cách dùng vị Nhân Cách Thần làm đối tương tôn giáo.Thật ra, Phật giáo cho rằng có một vị Thần nào đó vượt ngoài những hạn chế của tự nhiên.
 
c/ Nét đặc trưng của Phật giáo-Từ chỗ biết rõ sự mâu thuãn nhân sinh kia, nguồn gốc của mọi nhiễu phiền bất toại (dukkha), là do nơi ước vọng  mong cầu có được một cuộc sống vô hạn với yêu cầu giải thoát,tất cả những thứ này đều phát sinh từ nội tâm của ta; như vậy thì giải quyết tôi hậu tất nhiên phải tìm ngay trong tự tâm, thay vì đi tìm nơi một đáng siêu nhân nào đó. Và:nền tảng cơ bản về mặt tôn giáo của đức Phật là sự phản tỉnh tự tâm.
 
Như nhiều người đã biết lời dạy cuối cùng của Đức Phật là :”hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi;hãy tự mình là nơi nương tựa cho mình nương tựa nơi tránh pháp,tránh chứ đừng nương tự vào nơi nào khác”. Những lời này là minh chứng rõ ràng;và từ đáy về sau lập trường về Phật giáo đều lấy đó làm chủ hướng quán thông. Điều này cũng có nghĩa là ,theo Phật giáo,người thế nhập được sinh mệnh vô hạn quyết không thể dựa vào phương pháp ‘biểu tượng hóa tích cực’(qua hình ảnh Thần) mà tìm cầu được; trái lại phải bắt đầu giải phóng những hạn chế, cho nên phải bắt đầu từ cái cá thể bất hợp lý của ngã chấp, ngã dục để giải phong chính mình .Và khi thải nghiệm được sinh mệnh vô hạn thì tự minh biến thành nội dung của sự thể nghiệm ấy.
 
Đó là lập trường mới do Đức Phật đề ra. Nói một cách đơn giản thì:lập trường của Phật giáo là ’giải thoát’(khỏi những hữu hạn của tự nhiên) là mục đích, và đằng sau đó dự phóng một  định mệnh vô hạn (cuộc sông tự chủ tuyệt đối) những cái’vô hạn sinh mệnh’ấy chỉ được thể hiện nội tại chứ không biểu tượng hóa- có thể đây là một hình thức tôn giáo, tuy thần bí nhưng rất hợp lý và thực tiễn.
 
Các tôn giáo phổ thông xem ‘ sinh mệnh vô hạn’ như là sai ở bên ngoài, biến nó thành một hình thái nhất định với biểu  tượng là Thần (Thượng đế, Gog/Dieu/jehovah/Alah/Brahmah…). Phật giáo tuy lấy giải thoát làm tiêu biểu bên ngoài thế giớ hữu hạn nhưng vẫn không biểu tượng hóa  cái ‘ sinh mệnh vô hạn’. Nếu nói một cách miễn cưỡng thì đem ‘ không’ vào nội tâm – tất cả đều quy về ‘ một tâm’ (duy tâm). Đó là lập trường độc hữu của Phật giáo. Thế nhưng, đối với những người chưa thể nhiệm được giáo lý thâm ảo đó thì không khỏi có cảm giác hoang mang cho nên tùy thuận theo đà tiến triển của tư duy mà đem Chân Không biểu tượng thành Diệu Hữu; và,  để thích ứng với đường lối này, Phật giáo đã đưa ra nhiều danh từ như ‘ Pháp Thân’ ‘ Chân Như’, ‘ Tịnh Độ’ v.v. tư tưởng này có tuy có nhiều biền hóa nhưng tựu trung, theo ý tưởng theo căn bản,thì tất cả chỉ là những phương pháp giúp khai thác triệt để vùng đất kì nội tâm.
 
Theo cách phân tích và quan sát trên, người ta không thể không thừa nhận rằng Phật giáo, về mặt tự lực, nơi mục tiêu thỏa mãn yêu cầu tôn giáo, trong bản chất, là một tôn giáo hoàn toàn sung thực. nếu muốn so sánh với quan niệm Thần và Người của các tôn giáo khác thì:tương đương với Thần là’Niết -bàn’, ’Không’, ’Pháp’;còn tương vói Người thì xem ‘ngã dục’ là trung tâm khiến chi tự tỉ phải khổ đau trong cuộc sống mâu thuẫn, những cái’ngã dục’đó lại cũng luôn luôn hướng đến một cuộc thoát ly, nỗ lực giải phóng tự kỷ để thể hiện để thể nghiệm cho thế giới uyệt đối tự do (‘Niết –bàn’,’Pháp giới’,’ Phật giáo’). Nhưng đối với Phật giáo, cũng Thần Người trong các tôn giáo hoặc khách quan hoặc chủ quan tất cả đều do”Một Tâm” của con người, nghĩa là do nơi tự tâm con người để tìm cầu sự siêu việt. Và cái cảnh giới siêu việt đó nhất trí với nội tâm đây là hình thức tôn giáo đặc trưng nhất mà Đức Phật đề ra.
 
Ngắn gọn, trong tôn giáo tất  phải có hai phương diện tiêu cực và tích cực chung không thể tách rời nhau. Các tôn gióa phổ thông thì từ mặt lý tưởng ( tuyệt đối-tích cực) tiến đến hiện thực(tương đôi-tiêu cực); nhưng đặc trưng của Phật giáo thì ngược lại:đi từ hiện thực đến lý tưởng. Mà ngày nay, khi haaud hết các tôn giáo Thần quyền đang đi dần vào bóng  tối thì Phật giáo, vì có những đặc tính nêu trên vẫn được loài người ngưỡng mộ và phát triển mạnh mẽ.có thể nói Phật giáo  là một tôn giáo đã được thành lập theo phương pháp tâm lý tôn giáo chân chính và vĩnh viễn bất diệt.

Thứ Ba, 15 tháng 1, 2013

Bùa Chú dần biến mất



Các thầy bùa nắm giữ chìa khóa để vén mở tấm màn bí mật của bùa chú đang ngày một ít đi. Trải qua thời gian, những câu bùa chú bí ẩn cũng đang dần biến mất...
Truyền nhân của thầy bùa phải là người tốt
Các thầy bùa luôn cất giữ rất cẩn thận bí mật về những câu bùa chú của mình. Tuy nhiên, họ cũng tìm cách chuẩn bị cho mình một người học nghề nhằm tiếp tục lưu giữ bùa chú - một nét văn hóa truyền thống của các thế hệ đi trước. Việc chuẩn bị này là rất quan trọng bởi việc truyền nghề diễn ra trong thời gian khá dài và người kế tục phải hội tụ đầy đủ những điều kiện vô cùng khắt khe. Nếu không ưng ý về truyền nhân của mình, các thầy bùa sẵn sàng đem theo bí mật về gặp tổ tiên chứ nhất định không truyền lại một cách khiên cưỡng.
Đối với bùa chú của người Tày, thầy “mằn” sẽ lựa chọn và theo dõi quá trình phát triển của truyền nhân ngay từ khi người đó còn nhỏ. Trong quá trình phát triển tự nhiên, nếu người được chọn bộc lộ các yếu tố: Tính khí ôn hòa, thông minh, trung thực, nhanh nhẹn, đạo đức tốt thì thầy “mằn” sẽ xem xét quyết định truyền nghề cho người đó.
Việc chọn người truyền “mằn” phải diễn ra trong thời gian dài và kĩ lưỡng như vậy là bởi theo quan niệm của người Tày ở vùng cao, “mằn” có đa tác dụng nên nó sẽ tốt nếu thầy “mằn” có tư cách tốt. Ngược lại, nếu thầy “mằn” không tốt, “mằn” có thể biến thành cái gây hại, như vậy là có lỗi với các bậc tiền nhân. Thông thường, thầy “mằn” chỉ truyền nghề lại cho con cháu trong gia đình chứ  ít khi truyền cho người ngoài. Việc truyền nghề cũng diễn ra bí mật và phải đảm bảo chỉ hai người biết chuyện. Trong quá trình dạy dỗ đệ tử, thầy “mằn” cũng đặt ra những thử thách để rèn luyện khả năng của học trò.
Đặc biệt, trong một năm, việc truyền “mằn” chỉ diễn ra trong một ngày duy nhất là đêm ba mươi Tết, thời khắc trước giao thừa. Thầy “mằn” Đinh Văn Duyên lý giải việc này: “Từ xa xưa, việc truyền “mằn” luôn phải đảm bảo diễn ra trong bí mật. Theo phong tục truyền thống thì thời điểm trước giao thừa tất cả mọi người phải có mặt tại nhà để đón năm mới nên việc truyền “mằn” có thể diễn ra mà không sợ người khác đến học trộm. Thời khắc giao thừa với dân tộc Tày cũng là thời khắc rất linh thiêng và khi đó có tổ tiên quay về chứng giám”. Trong thời gian này, thầy “mằn” sẽ lần lượt truyền lại cho học trò những câu bùa chú tiếng Tày, cách thức thực hiện “mằn” cùng với việc cần phải tránh.

Thầy “mằn” Đinh Văn Duyên
Đáng chú ý, mỗi năm, thầy “mằn” chỉ truyền dạy cho học trò cách làm một loại bùa chú và thầy cũng chỉ hướng dẫn duy nhất một lần. Cứ như vậy, để học hết bùa của thầy thì thời gian có thể lên tới hàng chục năm.
Những yếu tố lựa chọn khắt khe, thời gian học lâu dài, thầy “mằn” không truyền cho người ngoài và truyền nhân phải biết tiếng dân Tày là nguyên nhân chính khiến việc chọn lựa truyền nhân làm “mằn” ngày càng khó khăn. Các thầy “mằn” khi không tìm được người kế tục thường giữ kín bí mật của mình và sống ẩn dật, lãnh đạm trong vùng núi sâu khiến những bí ẩn bùa chú theo đó cũng lẩn khuất nơi sơn dã.
Hai mặt của bùa chú
Thầy “mằn” Duyên kể rằng: “Bùa chú được chia thành nhiều loại và khác nhau theo từng dân tộc. Có những bùa chú sinh ra vì mục đích xấu nhưng cũng có những bùa chú được tạo ra vì mục đích tốt. Tuy nhiên, loại bùa chú tốt đó cũng có thể gây họa. Do đó, các thầy bùa cao tay thường ít khi sử dụng hết kho bùa chú của mình. Nếu quyết định truyền bùa cho thế hệ sau, họ cũng lựa chọn chỉ truyền một số loại nhất định”. Vì lý do đó nên một số loại bùa chú đã bị thất truyền và chỉ còn xuất hiện trong những câu chuyện mang màu sắc tâm linh huyền bí.
Các cụ già tại các bản trên núi cao vẫn thường kể cho con cháu nghe những câu chuyện về lời nguyền của thầy bùa. Trong đó, đáng sợ vào bậc nhất phải kể tới loại “chài” của người Thái vì quả “chài” khi được ném đến đâu thì người bị yểm bùa sẽ phải chết ở đó. Ném trên rừng, chết ở rừng. Ném xuống nước, chết bởi nước. Ném vào lửa, ắt sẽ bị lửa thiêu.
Tương truyền, cách duy nhất để giải được tai vạ là tìm bằng được quả “chài” và mang đến nhờ thầy bùa hóa giải. Cũng có chuyện kể rằng, nếu thầy “chài” ghét ai và yểm bùa thì người đó coi như mất hồn và sẽ về làm thân trâu ngựa cho nhà thầy. Dù những câu chuyện đó là 100% hư cấu dưới ánh đèn khoa học nhưng kỳ lạ một nỗi là ít ai dám coi thường sức mạnh của những lời bùa bí ẩn.
Thầy “mằn” Đinh Văn Duyên nói về các loại bùa chú mà ông ta có thể làm ra: “Những loại bùa như “mằn” của người Tày thì đơn giản hơn, tác hại của nó cũng nhỏ hơn nhưng không phải là không nguy hiểm, đặc biệt là: “mằn” say, “mằn” yêu, “mằn” ghét... Tỉ dụ như “mằn” say. Đây là loại bùa chú mà thầy “mằn” sẽ thổi bùa vào một chén rượu nhỏ. Một người bình thường dù không biết uống rượu thì với một chén nhỏ chắc chắn chưa thể say.
Thế nhưng, những ai uống phải chén rượu được thầy “mằn” thổi bùa thì tửu lượng có cao đến mấy cũng phải nằm say mê mệt hai, ba ngày. Hay như “mằn” yêu hay ghét. “Mằn” yêu có thể khiến những người chưa từng gặp gỡ hoặc yêu thương nhau nhưng sẽ phải sống chung với nhau dưới một mái nhà. Những đôi uyên ương, những gia đình hạnh phúc khi bị yểm “mằn” ghét có thể sẽ tan rã, chia ly. Cũng vì uy lực của hai loại “mằn” tình cảm này nên thầy “mằn” thường tìm hiểu rất kỹ nguyên nhân của người đến xin “mằn” rồi mới quyết định làm hay không...”.
Có tìm hiểu thì mới thấy rằng tạm bỏ qua thực hư tác dụng thần kỳ của bùa chú thì ít nhất bùa chú cũng có tác dụng làm yên gió bão trong lòng người. Ngoài ra, cứ nhìn vào những yêu cầu khắt khe khi các thầy “mằn” làm bùa và việc họ tuyển lựa truyền nhân thì mới thấy rằng mục đích cơ bản của bùa chú là giúp đỡ con người và mang đầy tính thiện. Tuy vậy, với việc các thầy bùa đang dần biến mất, có lẽ chỉ một vài năm nữa, họ sẽ là những con người của quá khứ và chỉ được nhắc đến trong những câu chuyện huyền bí kèm theo những câu hỏi về một thế giới bí ẩn mang tên “bùa chú” mà thôi...
Viet Bao (Theo PLVN)