Đạo
đức Phật Giáo là lối sống luôn mang lại an lạc và
hạnh phúc cho con người. Nó nêu bật vị trí quan trọng cao
tột của con người và chứng minh rằng con người có khả
năng đạt được chơn giá trị đạo đức tối thượng
(giải thoát) nếu như vị ấy có đủ ý chí vàsự nổ
lực tự thân . Đặc biệt, Đạo đức Phật Giáo là lối
sống cao thượng dạy con người:
"Tránh làm các điều ác, tu tập các việc lành, giữ tâm ý trong sạch. Đó là lời dạy của chư Phật."
(To eschew all evils, to perform good actions, and to purify one’s mind. That is the teaching of the Buddhas) (1)
Sống đạo đức
có nghĩa là sống phù hợp với việc làm thiện qua Thân-Khẩu-Ý
(Tam nghiệp), sự tuân thủ giới luật (Sìla) là một trong
những phương pháp đạo đức Phật giáo huấn luyện 3
nghiệp của con người loại trừ các phiền não nhiễm ô
ở đời, và đạt được sự thanh tịnh về thân-khẩu-ý
của chính mình:
" Người luôn thận trọng lời nói, khéo phòng hộ tâm, không phạm điều ác về thân, và giữ các phương pháp tu tập này thanh tịnh; sẽ chứng được đạo của Thánh nhân dạy."
(He who guards his speech, restrains his mind, commits no wrong by his body, and thus keeps these roads of action clean, will achieve the way taught by the wise) (2)
Bằng
cách thực hành đúng đắn về giới được đức Phật
thiết lập, hàng giả diệt trừ tất cả những phiền não
lậu hoặc: Tham-Sân-Si, bẻ gãy những lạc thú trần tục,
giải thoát tất cả mọi khổ đau, và đạt đến sự thanh
tịnh 3 nghiệp (thân-khẩu-ý) cùng với tâm và tuệ giải
thoát. Về phương diện thế gian, bất cứ xã hội hay một
tổ chức đoàn thể nào (như: trường học, cơ quan, xí
nghiệp, nhà máy...) muốn ổn định trật tự xã hội và
hoạt động các công việc của đoàn thể một cách có
hiệu qủa cao, xã hội hay đoàn thể đó phải tự ấn định
cho riêng nó những quy tắc hay điều luật đối với kỷ
luật tập thể. Mặt khác, muốn thực hiện cuộc cách
mạng đạo đức xã hội và môi trường sống của con người,
điều trước tiên là phải cải tạo tư tưởng đạo đức
cá nhân qua phương pháp tu tập và sự thực hành giới. Điều
này có nghĩa là nếu con người muốn cải cách lại nền đạo
đức xã hội ngày càng trở nên tốt đẹp mà không có sự
chuyển hóa đạo đức cá nhân bằng sự thạnh lọc thân-khẩu-ý
trở nên thanh tịnh, cuộc cải cách đó chỉ là sự cải
tạo hình thức bề ngoài mà thôi.
Theo
lời dạy cơ bản của đức Phật, sự tu tập giới là
một sự biểu lộ tình thương và lòng từ mẫn vô hạn đối
với tất cả chúng sanh. Lòng từ bi của Phật giáo được
biểu lộ không chỉ riêng đối với tất cả nhân loại mà
còn được biểu hiện qua thái độ Bất Hại (Ahimsà)
đối với tất cả loài thú vật và thảo mộc. Với từ
ngữ " Bất hại" (Ahimsà) không có nghĩa là
"không va chạm". Nó có nghĩa là " không tàn phá"
và "không hủy diệt" . Đó là một thái độ
truyền thống của đạo Phật được bắt nguồn từ lời
dạy của đức Phật cách đây hơn 25 thế kỷ. Thái độ này
được biểu hiện qua các nước Phật giáo bằng những phương
pháp đặc biệt như là: trồng cây để che bóng mát ở hai
bên đường, trồng các loại dược thảo khác nhau để
chữa bệnh, xây dựng các bệnh viện dành cho người bệnh
cũng như các trạm thú y dành cho thú vật,...dưới triều đại
của vua A Dục vào khoảng 300 trước công nguyên (planting
trees for shade on two road-sides, planting various kinds of medicinal
trees for curing, and building hospitals for the humans as well as
clinics for animals, ect..., under the reign of King Asoka - 300 BC)
(3)
Đối
với Phật giáo, con người thuộc về tự nhiên, vũ trụ
được hình thành do các yếu tố nhân và duyên. Do đó, con
người được bao gồm trong thiên nhiên và ngược lại.
Nếu con người cố ý hủy hoại tự nhiên, điều đó có
nghĩa là con người tự phá hủy chính mình. Vì con người và
tự nhiên luôn ảnh hưởng qua lại và mối liên hệ lẫn
nhau. Để chứng minh ý nghĩa này, nhà sinh thái học người
Anh, ông A. MacFadyen đã phát biểu rằng: "Sinh thái
học tự nó liên quan đến mối quan hệ qua lại giữa sinh
vật sống, thảo mộc, hoặc loài động vật, và môi trường
của chúng..." (Ecology concerns itself with the
interrelationship of living organism, plants, or animals; and their
environment...) (4)
Mặt
khác, theo quan điểm Phật Giáo, sự đòi hỏi của con người
tiếp xúc với thiên nhiên giống như những chú ong tiếp xúc
với hoa; dù hút mật hoa, ong không bao giờ làm tổn hại hương
sắc của hoa: "Như ong hút mật hoa , ra đi không làm
hại hương và sắc, cũng vậy bậc Thánh đi vào làng"
(As the bee collects honey from flowers and departs without doing any
harm to their scent, so let a sage dwell in the village) (5)
. Đó là nguyên tắc sống đạo đức đối với các hàng
đệ tử Phật được biểu lộ bằng sự tuân thủ giới
luật (Sìla).
Trước
khi thực hành giới luật Phật Giáo, chúng ta hãy cùng nhau tìm
hiểu và nghiên cứu về giới luật (Sìla) trong Phật Giáo.
Đó là đề tài mà người viết muốn giới thiệu đến
với quý đọc giả.
I
. NGUYÊN TỪ CỦA SÌLA (Etymology of Sìla) :
1.
Định nghĩa về "Sìla":
Từ
"Sìla" không có nghĩa là những điều luật, quy
luật, hay những quy tắc... buộc con người phải tuân thủ
như : trong nhà trường, cơ quan, các ban ngành đoàn thể, các
tổ chức xã hội, hay ở các tôn giáo khác. Một vài học
giả đã giải thích Sìla với ý nghĩa khác qua nhiều phương
diện khác nhau như: Về phương diện quy tắc và lòng từ,
"Sìla" có nghiã là: sự hướng dẫn về tư cách đạo
đức (guide for behavior)
(6); hoặc phép tắc để hành xử (rule for action) (7); hay có nghĩa khác là
lời dạy, mệnh lệnh, sự ngăn cấm, quy luật,...v..v.. (precept,
command, prohibition, dicipline, ect.) (8). Về phương diện đạo
đức, "Sìla" có nghĩa là: giới hạnh (Virtue),
như tác giả luận sư Buddhaghosa đã định nghĩa:
"Giới hạnh là gì? Đó là những trạng thái bắt đầu bằng sự hiện diện củ Tư tâm sở trong một con người xa lánh việc Sát Sanh (không giết hại chúng sanh), v.v...; hoặc trong con người thực hành viên mãn các học giới "
(What is Virtue? It is the states beginning with volition present in one who abstain from killing living-beings, etc., or in one who fulfils the practice of the duties) (9).
Đặc
biệt, về phương diện tu tập, "Sìla" là từ ngữ
của Pàli được hiểu theo nhiều nghĩa như: "việc
thực hành đạo đức, đức tính tốt, đạo đức Phật giáo,
và điều lệ về đạo đức" (moral practice, good
character, Buddhist ethics, and code of morality) (10). Trong Từ Điển
Sanskrit-Anh, nó được định nghĩa như sau:
"Theo từ ngữ Phật học Sanskrit, Sìla được giải thích là phong cách cư xử theo đạo đức, là một trong 6 hoặc 10 pháp Ba-la-mật; hoặc được giải thích là giới điều về đạo đức. Theo Phật giáo, có 5 giới hay còn gọi là 5 phép tắc cơ bản về phong cách đạo đức"
(According to Sanskrit word of Buddhist "Sìla", it is explained as ‘Moral Conduct’, is one of the six or ten perfection or Pàramitàs ; or ‘Moral Precept’. With Buddhism, there are five fundamental precepts or rules of moral conduct) (11).
Theo quan điểm
người viết, mặc dù từ "Sìla" thuộc Pàli và từ
"Sìla" thuộc Sanskrit có phần khác nhau một chút
về hình thức dấu, chúng có cùng một nghĩa tương đồng và
luôn nhấn mạnh về phương cách thực hành và ứng dụng
về Sìla trong cuộc sống con người, hầu mang đến cho họ
một lối sống hoàn toàn chơn thiện mỹ với niềm vô biên
an lạc và hạnh phúc tối thượng. Theo quan điểm Phật giáo,
Sìla bao gồm 2 nghĩa: giới điều về đạo đức (theo phương
diện đạo đức), và phong cách cư xử về đạo đức (theo
phương diện tu tập). Với nghĩa đầu tiên, nó được
xuất phát từ lời dạy của đức Phật khuyên con người:
tránh ác làm lành, tu tập thân-khẩu-ý thanh tịnh, diệt
trừ tất cả những phiền não tham-sân-si đưa đến sự an
lạc giải thoát cho chính mình. Với nghĩa thứ hai, không
những nó khuyên con người qúy mến nhau, thương yêu nhau, thông
cảm cho nhau, đoàn kết và giúp đở nhau; mà còn hướng
dẫn con người làm thế nào để tu tập Sìla (Giới) thích
nghi với mọi tình huống xã hội hầu mang lại lợi ích, an
vui và hạnh phúc thật sự cho mình và người. Đây chính là
ý nghĩa Sìla tích cực và năng động trong giới Phật giáo.
Ý nghĩa Sìla như thế mới có thể đóng góp vai trò quan
trọng của nó về phương diện đạo đức trong cuộc sống
con người và cộng đồng xã hội ngày nay.
2.
Những điều luật của Sìla:
Như
chúng ta biết rằng, cuộc sống của các hàng đệ tử
phật trong 5 chúng, như là: Tỳ-kheo (Bhikkhus), Tỳ-kheo-ni
(Bhikkhunìs), Sa-di (Sràmaneras), Phật tử Nam (Upàsakas), Phật
tử Nữ (Upàsikas), được tuân thủ những giới điều của
Phật giáo. Nền tảng cội nguồn của những quy điều này
truyền đến thế hệ chúng ta từ một hình thức rất sớm
với tên gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa (Pàtimokkha), và được
tập hợp lại từ những quy điều tự viện khác nhau được
bao gồm trong Luật Tạng (Vinaya Pitaka).
Ba-la-đề-mộc-xoa
có 2 phần : một dành cho Tỳ-kheo bao gồm 227 giới (12), và một dành cho
Tỳ-kheo-ni bao gồm 311 giới (13). Mặt khác, Ba-la-đề-mộc-xoa
được phân chia thành 8 loại tội lớn nhỏ khác nhau dành
cho Tỳ kheo, và 7 loại tội cho Tỳ-kheo-ni (vì không có 2 pháp
Bất Định -Aniyatà) được trình bày tóm tắt như sau:
Số
tt
|
Các
loại giới
|
Tỳ-kheo
|
Tỳ-kheo-ni
|
1
|
Ba-la-di
(Pàràjika: Defeat Rules)
|
4
|
8
|
2
|
Tăng
Tàn (Sanghàdisesa: Formal MeetingRules)
|
13
|
17
|
3
|
Bất
Định (Aniyatà: Undetermined Rules)
|
2
|
-
|
4
|
Xã
đọa (Nissaggiyà Pàcittiya: Forfeiture Rules)
|
30
|
30
|
5
|
Tội
Đọa (Pàcittiya: Expiation Rules)
|
92
|
166
|
6
|
Hướng
Bỉ Hối (Pàtidesaniyà: Confession Rules)
|
4
|
8
|
7
|
Chúng
Học (Sekhiya: Training Rules)
|
75
|
75
|
8
|
Diệt
Tránh (Adhikarana Samatha: Legal Question Rules)
|
7
|
7
|
|
Tổng
Cộng
|
227
|
311
|
Đó
là phần giới Pàtimokkha dành cho Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni.
Tiếp theo là phần 10 giới dành cho vị Sa-di (Sàmanera), đó
là tránh xa :
1. Việc sát sanh (Destroying life)
2. Việc trộm cắp (Stealing)
3. Việc tà dâm (Impurity)
4. Việc nói dối (Lying)
5. Việc uống các chất say và rượu mạnh (Arrack and strong drink and intoxicating liquors)
6. Việc ăn phi thời (Eating at forbidden times)
7. Việc ca múa hát xướng và xem nghe (Dancing, singing music and seeing spectacles)
8. Việc đeo tràng hoa thơm và thoa phấn sáp (Garlands, scent, unguents, ornaments, and finery)
9. Việc xử dụng giường cao và rộng lớn (The use of the high or broad beds)
10. Việc cầm giữ vàng bạc (Accepting gold and silver) (14).
Trong
sự liên hệ về 10 giới này, tác giả H. Kern đã đề cập
về Sìla trong cách diễn đạt khác. Ông viết: "Tất
cả 10 giới này buộc các thành viên trong Tăng đoàn tuân
thủ, 5 giới đầu dành cho Phật tử là tránh xa: (1) việc sát
sanh, (2) trộm cắp, (3) tà dâm, (4) nói dối, (5) dùng các
chất say; 5 giới sau tránh xa: (6) ăn phi thời, (7) tham gia vào
các trò chơi giải trí ở đời, (8) dùng phấn sáp và hương
thơm, (9) nằm giường trang sức và rộng lớn, (10) giữ
tiền bạc." (15)
Về
phương diện khác, một số sách đã được các tác giả đề
cập về 10 giới theo một trật tự khác, ví dụ như: trong
quyển "Đạo Đức Phật Giáo" của tác giả
H. Saddhàtissa, ông ta đã đổi lại vị trí của giới thứ
8 sang vị trí của giới thứ 9 và ngược lại (16). Hay
trong sách giáo khoa "A Study of the Sphutàrthà
Srighanacarasangraha Tika" của Giáo sư Sanghasen Singh, ông
ấy đã sắp xếp vị trí của giới thứ 6 sang vị trí
của giới thứ 9 và ngược lại.
(17)
Chúng
ta thấy rằng, tùy theo căn cơ cao thấp của con người mà
đức Phật thiết lập ra các giới điều theo mỗi mức độ
khác nhau, nhằm giúp con người dễ dàng tu tập tâm thanh
tịnh trên con đường tu tập phát triển tâm linh. Mặc khác,
dù giới luật (Sìla) có phân chia thành nhiều loại khác
nhau, 5 giới đầu và 10 giới đầu vẫn là những giới căn
bản và chủ yếu cho tất cả mọi người khi tu tập đạo
đức tâm linh; những giới khác được hệ thống hóa một
cách chi tiết từ những 10 giới căn bản này. Đăc biệt, 5
giới đầu là nền tảng cơ bản đạo đức chủ yếu trong
sự tu tập không những cho tất cả qúy vị Phật tử, mà còn
cho tất cả mọi người trong xã hội nếu họ muốn tìm
một cuộc sống an lạc và hạnh phúc thực sự, muốn
thiết lập một xã hội có trật tự, và muốn xây dựng
một thế giới hòa bình. Đó là nền đạo đức luân lý cơ
bản được đức Phật thiết lập và hướng dẫn cho con người
tu tập đạo đức tâm linh với mục đích vì an lạc và
hạnh phúc cho mọi người trong cuộc sống hiện tại cũng
như ở tương lai.
II.
KHÁI NIỆM VÀ HIỆU LỰC CỦA SÌLA (Concept and Effect of Sìla)
1.
Khái niệm về Sìla:
Khi
đề cập đến Sìla, đầu tiên chúng ta cần nhận thức đúng
đắn về khái niệm của Sìla. Như được đề cập về Sìla
trong phần đầu giới thiệu, Sìla không có nghĩa là những
điều lệ hay những quy tắc như ở: trường lớp, cơ quan,
xã hội, hay các tổ chức đoàn thể..., nó cũng không có
nghĩa là: chấm dứt, hay ngăn cấm các hành vi bất thiện như
cắt đứt cây cỏ thảo mộc... Sự tuân thủ Sìla trong đạo
Phật nhằm vào ý thức đạo đức cá nhân hầu giúp con người
giải thoát tất cả những phiền não ô nhiễm và khổ đau
ở đời, mang lại cho họ một cuộc sống hoàn toàn chơn
thiện mỹ.
Đức
Phật, Ngài nhận rõ hoàn toàn sự đau khổ con người bắt
nguồn từ cội gốc phiền não Tham-Sân-Si; vì thế, Ngài đã
dùng phương tiện khéo léo bằng cách thiết lập các giới
điều về đạo đức cho con người tu tập ý thức cá nhân,
và mang lại cho họ sự an vui, hạnh phúc và giải thoát tâm.
Từ quan điểm này, chúng ta nhận thấy Sìla trong Phật giáo
được bắt nguồn từ sự đau khổ của con người, nó
chỉ là phương tiện cho con người nương theo để tu tập
thoát khỏi mọi khổ đau khi con người vẫn còn đau khổ. Vì
vậy, đứng trên phương diện giải thoát mà nói, sự tuân
thủ giới không là cái gì cả, nó chỉ là phương tiện
tạm thời để gíup con người thoát khỏi mọi khổ đau.
Từ đây, ta có thể nói rằng: Giới (Sìla) là cội gốc
của sự Giác ngộ, là nền tảng của Niết bàn, là chiếc
bè đưa người qua bể khổ, là chiếc cầu nối liền với
bờ Giải thoát.
Mặt
khác, sự thực hành Giới (Sìla) có nghĩa là dạy con người
làm thế nào để tu tập đạo đức cá nhân, làm thế nào
để nhận rõ và thông cảm nổi khổ của con người như
của chính mình. Hiểu được khái niệm này, hành giả không
những tu tập đạo đức chính mình mà còn không gây đau
khổ cho mình và người khác trong cuộc sống cộng đồng xã
hội.
Từ
sự giải thích ở trên về khái niệm giới, chúng ta hiểu
được rằng: Giới trong Phật giáo là nhằm vào sự giải
thoát phiền não và sự tu tập đạo đức cá nhân của con
người; do đó, sự tuân thủ giới luật (Sìla) trong Phật
giáo mang lối thực hành mới mẽ, năng động và tích cực
đối với mọi người, mọi xã hội, và mọi thời gian vì
tính chất giải thoát của nó. Đó là khái niệm đúng đắn
về Giới (Sìla) trong Phật giáo được trình bày như trên.
2.
Hiệu lực của Sìla:
Khi
nghiên cứu về Phật pháp, chúng ta nhận thấy lời dạy
của đức Phật luôn khuyên con người: tu tập đạo đức cánhân,
cư xử với nhau bằng tấm lòng nhân ái và vị tha, sống
với sự bình đẳng-bác ái-độ lượng-và khoan dung, không
làm đau khổ cho mình và người, xa lánh những phiền não và
lạc thú ở đời bằng sự tu tập Giới hầu giải thoát
khổ đau và đạt được chơn hạnh phúc tối thượng. Hơn
nữa, sự tuân thủ giới luật trợ giúp con người phát huy
lốisống mẫu mực, thành tựu ý thức đạo đức cá nhân,
và đưa con người đến sự an lạc hạnh phúc và giải thoát
giác ngộ. Đặc biệt, giới Phật giáo dạy con người
nhận thức đúng đắng về phong cách cư xử đạo đức
trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa thầy và trò,
giữa chồng và vợ, giữa chủ và tôi tớ, và giữa tình
bạn với nhau như :
a.
Giữa cha mẹ và con cái (18)
Đức
Phật đã xác định và nhấn mạnh về mối liên hệ của
gia đình bằng cách khuyến khích tất cả mọi người nên
duy trì mối quan hệ ràng buột gia đình với nhau , sống
với nhau bằng sự tôn trọng nhân cách và được thể
hiện qua trách nhiệm và bổn phận của mình trong gia đình.
Ngài đã đưa ra 5 điều giới mà người con cần phải tuân
thủ:
* Cấp dưỡng cho cha mẹ (Supporting his parets now).
* Thực hiện trách nhiệm và bổn phận của mình đối với cha mẹ (Performing duties incumbent on them).
* Duy trì nòi giống và truyền thống của gia đình (Keeping up the lineage and tradition of the family).
* Làm tròn công việc ma chay đối với người đã khuất (Making gifts in due course to the dead).
Ngược
lại, cha mẹ phải đối xử với con cái theo 5 điều:
* Ngăn cản con cái làm những hành động bất chính (Restraining him from evil action).
* Khuyến khích con cái làm những việc có đạo đức (Exhorting him to virtue).
* Hướng dẫn cho con cái có nghề nghiệp ổn định (Training him to a profession).
* Sắp xếp việc cưới hỏi thích hợp cho con cái (Arranging a suitable marriage for him).
* Trao cho con di sản thừa kế đúng lúc (In due time, handing over his inheritance)
b.
Giữa Thầy và trò (19)
Mối
quan hệ giữa thầy và trò được đánh giá rất cao trong
Phật giáo. Đức Phật dạy 5 cách được ứng dụng cho
học trò đối với Thầy:
* Đứng dậy chào Thầy (Rising from his seat in salutation).
* Hầu Thầy (Waiting upon the teacher).
* Ham học (Desiring to learn).
* Chăm sóc thầy chu đáo (Rendering him personal service).
* Chú tâm mỗi khi nghe lời dạy của Thầy (Paying attention when receiving the teacher’s teachings).
Ngược
lại 5 cách này, Thầy giáo phải có 5 bổn phận đối với
học trò:
* Dạy học trò những điều mà Thầy đã được huấn luyện (Training the pupil in that wherein the teacher has been trained).
* Làm cho học trò nắm chắc những điều đã được học (Making the pupil hold fast that, which is well held).
* Dạy bảo học trò hết lòng bằng kiến thức khéo léo của mình (Thoroughly instructing the pupil in the lore of every art).
* Nói tốt cho học trò giữa những người bạn và đồng nghiệp (Speaking well of the pupil among his friends and companies).
* Bảo vệ sự an toàn cho học trò trong mỗi phương diện (Providing for his safety in every quarter).
c.
Bổn phận chồng đối với vợ
Để
giữ được cuộc sống hạnh phúc gia đình giữa chồng và
vợ được lâu dài, Đức Phật dạy 5 bổn phận của người
chồng đối với vợ:
* Tôn trọng nhau (Respect).
* Lịch sự nhã nhặn với nhau (Courtesy).
* Trung thành (Faithfulness).
* Tôn trọng quyền làm vợ (Hand over authority to her).
* Cung cấp cho vợ những vật trang sức cần thiết (Providing her with necessary adornment).
Ngược
lại, vợ cũng phải biểu hiện 5 bổn phận của mình đối
với chồng:
* Thể hiện tốt trách nhiệm của mình đối với chồng (Well performing her duties).
* Biểu hiện lòng mến khách đối với dòng dõi giữa 2 gia đình (Showing her hospitality to the kin of both families).
* Trung thành (Faithfulness).
* Giữ gìn kỷ lưỡng tài sản của chồng (Well watching over the husband’s wealth)
* Khéo léo và linh động thực hiện các việc kinh doanh. (Skill and industry in discharging all her bussiness).
d.
Bạn bè với nhau (21)
Trong
phần này, đức Phật đãđưa ra 5 phương pháp để cư xử
trong tình bạn. Vị ấy phải tự mình làm tròn trách nhiệm
của mình đối với bạn theo 5 điều:
* Rộng lượng với bạn (Generosity).
* Nhã nhặn với bạn của mình (Courtesy).
* Có lòng nhân từ (Benevolence).
* Cư xử với bạn giống như cư xử với chính mình (Treating them as he treats himself).
* Nói lời tốt đẹp (Being as good as his word).
Ngược
lại, người bạn của vị ấy cũng đáp lại cho vị ấy
theo 5 cách:
* Bảo vệ bạn khi bạn không kịp đề phòng (Protecting him when he is off his guard).
* Giữ gìn của cải cho bạn (Guarding his property).
* Là nơi nương tựa cho bạn trong lúc nguy hiểm (Becoming a refuge in danger).
* Không từ bỏ bạn trong lúc khó khăn (Not forsaking him in his family).
* Quan tâm đến gia đình của bạn (Showing consideration for his family).
e.
Bổn phận giữa chủ đối với đầy tớ (22)
Đức
Phật dạy người chủ phải cư xử với người đầy tớ
của mình theo 5 cách:
* Phân công việc phải tùy theo sức khẻo và khả năng của đầy tớ (Assigning their work according to their strength and capabilities).
* Cung cấp đầy đủ thức ăn và lương bổng cho họ (Supplying them with food and wages).
* Chăm sóc họ khi bệnh hoạn (Looking after them in sickness).
* Thỉnh thoảng chia sẽ cho họ những món ăn ngon (Sharing withthem occasional delicacies).
* Cho phép họ nghỉ ngơi đúng lúc (Granting leave at time).
Ngược
lại, người tớ phải thể hiện 5 bổn phận trách nhiệm
của mìng đối với chủ như:
* Thức dậy trước người chủ của mình (Rising before the owner).
* Đi ngủ sau chủ của mình (Going to rest after the owner).
* Bằng lòng với công việc được giao (Contenting themselves with what is given to them).
* Làm việc hết lòng (Well working).
* Làm tốt thanh danh của chủ (Establishing a good reputation for the owner).
Đặc
biệt đối với Tăng-ni, bằng sự tuân thủ giới
tiểu-trung và giới đại , vị ấy thận trọng những hành
vi thiện trong lời nói và việc làm của mình. Sống trong
sạch, phẩm hạnh tốt, phòng hộ các căn, vị ấy chánh
niệm tĩnh giác. Vị ấy đạt được sự thanh tịnh về thân-khẩu-ý
(By the observance of Sìla with the Culla Sìla (Minor Precepts,
Majjhima Sìla (Medium Precepts), and Maha Sìla (Major Precepts), one
encompasses himself with good deeds in act and word. Pure are his means
of livelihood, good is his conduct, guarded the door of his senses, he
is mindful and seft-possessed. He attains the purification of
body-speech-and mind) (23). Với sự hòan hảo
giới hạnh, vị ấy tẩy trừ tâm tham ái, ác ý, yếu ớt và
biếng nhác, trạo cử và hối tiếc, và tâm nghi ngờ (with
fulfilment of moral conduct, he purifies his mind of lusts, of
malevolence, of weakness and of sloth, of flurry and reget, and of
doubt) (24). Khi 5 phiền não đã
được tẩy trừ, tâm vị ấy an tịnh chứng và trú vào
Tứ thiền. Sau đó, tâm vị ấy hướng đến Thắng trí, và
chứng đắc Tam minh và Lục thông. Đây là kết quả dị
thục của đời sống Sa môn trong cuộc đời.
Từ
vấn đề được đề cập ở trên, chúng ta có thể nói
rằng: sự tuân thủ giới là nhằm vào sự tẩy trừ những
hành vi bất thiện, xây dựng một con người đạo đức và
gương mẫu trong xã hội, hình thành một xã hội hòa bình và
hạnh phúc cho con người. Đây là nguyên tắc đạo đức cơ
bản được đức Phật thiết lập vì an lạc hạnh phúc và
giải thoát cho mình và người trong cuộc sống hiện tại cũng
như trong tương lai.
3.
Sự tu tập Giới (Sìla):
Trước
khi đề cập về sự tu tập giới, chúng ta không quên đề
cập đến công năng và nhiệm vụ của nó. Nhiệm vụ của
giới gồm có 2 nghĩa: hành động để chấm dứt tà hạnh và
thành tựu đức không lỗi nơi người có giới. Bởi thế
khi gọi là Giới, cần hiểu rằng nó có nhiệm vụ chặn đứng
các tà hạnh là nhiệm vụ của nó theo nghĩa hành động, và
bản chất không lỗi kể như nhiệm vụ của nó trong nghĩa
thành tựu. Vì ở đây, chính hành động hoặc sự thành
tựu được gọi là nhiệm vụ. Còn công năng và lợi ích
của việc trì giới là "phòng phi chỉ ác"
(tức là ngăn chặn những việc làm sai trái và đình chỉ các
việc ác). Chính nhờ hành trì đúng đắn các giới điều
đức Phật chế ra, hành giả đạt được sự thanh tịnh
về thân-khẩu-ý và đạt được sự vô uý.
Theo
quan điểm của đạo Phật, Giới được đặt trên nền
tảng tình yêu thương rộng lớn và lòng thương xót đối
với tất cả chúng sanh. Vì thế, muốn thành tựu giới
trọn vẹn, chúng ta cần phải sống với sự chế ngự của
giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy
nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt. Nhờ vậy, 3 nghiệp
được thanh tịnh:
"Thân khẩu ý thanh tịnh, thị danh Phật xuất thế
Thân khẩu ý bất tịnh, thị danh Phật diệt độ"
Thân
khẩu ý thanh tịnh tức là: thân tránh xa những điều xấu
ác như sát sanh-trộm cắp-tà dâm...; miệng không nói dối,
nói 2 lưỡi, nói lời độc ác...; ý không móng khởi lên
tham-sân-si và tà kiến. Trong khi thực hành giới , chúng ta
cần nhất phải giữ gìn thân và miệng bề ngoài cho đúng
với giới luật thì tâm trí bên trong mới được trong
sạch. Trong và ngoài đều trong sạch, tức nhiên dung nhiếp
nhau từ chỗ mê đến chỗ ngộ. Muốn đạt đến chỗ ngộ
, hành giả cần phải hướng về những giới điều như :
nhiếp luật giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình
giới (Tam Tụ Tịnh Giới) ... Nếu thực hành đúng Giới
học như trên, tức nhiên thân tâm giải thoát được mọi
sự ràng buộc và không sanh khởi những hành vi bất thiện.
Nhờ có sức mạnh của việc trì giới, chúng ta có thể vượt
lên sư chi phối của ngoại cảnh, của nội tâm; hầu tìm
đến sự an tịnh cho chính mình ngay trong cuộc đời.
Trong
thời đại hiện nay, người đệ tử Phật (nói chung) và Tăng
- Ni trẻ (nói riêng) cần phải tu tập giới như thế nào để
hoà hợp với cuộc đời khi chúng ta thực hiện nhiệm vụ
"Truyền trì đạo mạch" của đức Thế Tôn?
Trong
kinh Kim cang, có câu:
"Nhất thiết hữu vi pháp, Như mộng , huyễn, bào ảnh,
Như lộ diệc như điển, Ưng tác như thị quán".
Thật
vậy, vạn vật trên cuộc đời này đều do các duyên hoà
hợp mà sinh khởi và hoại diệt khi duyên tan rã. Các pháp
đều không trường tồn, luôn sanh diệt diệt sanh, sanh sanh
diệt diệt, sanh để rồi diệt, diệt để rồi sanh ... cứ
như thế luôn đổi thay biến hoá từ tình trạng này sang tình
trạng khác. Chúng như chiêm bao, như huyễn hoá, như bọ bào,
như bóng nắng, sương mai, như điện chớp ... nên gọi là vô
thường, giả tạm, không thật có ... Người học cần
phải biết phân biệt như vậy mà quán sát rằng : con người
do Thất đại (Địa, Thủy, Hoả, Phong, Không, Kiến, Thức)
giả hợp mà thành. Hay nói khác, do duyên của 5 Uẩn (Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức) giả hợp mà thành một con người,
mọi sự vật trên cuộc đời đều do Tứ Đại (Đất, Nước,
Gió, Lửa) giả tác thành mà hiện hữu. Tất cả luôn bị
sức búa của thời gian tàn phá, tiêu diệt và hủy hoại
theo quy luật tất yếu của cuộc sống. Dòng đời luôn
vận chuyển theo thời gian mà thay đổi, sanh diệt và không
bao giờ đứng yên một chổ. Mọi thứ trên cuộc đời đều
phải vận động để tiến hoá, đấu tranh để sinh tồn. Vì
vậy Đức Phật đã từng nói : "Tất cả những lời
dạy của Ngài như ngón tay chỉ mặt trăng". Chúng ta
chớ lầm tưởng ngón tay là cứu cánh, nó chỉ là "phương
tiện" để chỉ cho mọi người hướng đến mặt trăng
mà thôi! Mọi giáo điều của Ngài chỉ là phương tiện để
giúp cho con người nương theo đó vượt thoát mọi khổ đau,
hầu hướng đến sự an lạc giải thoát cho chính mình. Cũng
vậy, giáo điều của Phật chỉ tạm chế ra khi có người
trong Tăng đoàn phạm lỗi , nếu không ai có lỗi thì Ngài
không chế. Do đó, giới điều của Phật chỉ là phương
tiện làm cho con người thuần thục về tư tưởng, về
lối sống và ứng xử với nhau một cách tốt đẹp. Nếu
con người vốn thuần thục trong giới, họ trở thành
những người mẫu mực, chân chánh, thân tâm luôn thanh
tịnh thì cần gì phải giữ gìn giới điều. Khi cây chưa bén
rễ, chúng ta cần phải có hàng rào (giới) để ngăn cản
loài chó, gà không bươi phá. Khi nó bén rễ, phát triển cao
lớn, cành lá sum xuê thì dù cho không có hàng rào chăng
nữa, gà chó cũng chẳng làm tổn ại gì đến cây.
Trong
tạng kinh Phật giáo đức Phật có đề cập đến 5 sự
lợi ích cho người trì giới và sống đúng giới luật:
a. Tiền của dồi dào qua công việc làm đứng đắn (Acquirement of great wealth through his industry and of strong rectitude).b. Tiếng lành đồn xa (Good report of him are spread aboard).c. Khi vào trong bất kỳ hội chúng nào, hoặc xã hội, hoặc giới thượng lưu, hoặc giới Bà la môn, hoặc gia chủ, hoặc những thành viên trong cộng đồng tôn giáo (Sa môn) ... tâm vị ấy không sợ hãi và bối rối. (His entering into whatever society, Nobles, Brahmins, Householders, or members of a religious order,etc., with his confident and self-possessed mind.).d. Chết không sợ hãi (Death without anxiety).e. Sau khi chết, vị ấy được thác sanh vào cõi thiên giới (Rebirth into some happy state in heaven after death). (25)
Và
ngược lại, đức Phật cũng đề cập 5 sự hãm hại và
mối nguy hiểm đến với những ai không tuân thủ giới :
a. Tài sản bị hao hụt (Falling from great property through sloth and devoid of rectitude).b. Tiếng ác đồn xa (His evil repute gets noised abroad).c.Khi vào trong bất kỳ hội chúng nào, hoặc xã hội, hoặc giới thượng lưu, hoặc giới Bà la môn, hoặc gia chủ, hoặc những thành viên trong cộng đồng tôn giáo (Sa môn) ... tâm vị ấy luôn sợ hãi và bối rối. (His entering into whatever society, Nobles, Brahmins, Householders, or men of a religious order,etc., with shy and confused mind).d. Chết với tâm đầy sợ hãi (Death with full anxiety).e. Sau khi chết, vị ấy bị thác sanh vào cõi ác thú (Rebirth into some unhappy state of suffering or woe after death). (26)
Nói
tóm lại, người Tăng Ni trẻ chúng ta sống trong một thời
đại văn minh tiến bộ, cần phải hiểu biết thâm sâu về
sự tu tập giới. Chúng ta không nên đóng kín những giới
điều của Phật trong một khuôn mẫu nhất định mà phải
dùng trí quán sát "Tuỳ Duyên Bất Biến" trong
khi tu tập. Dẫu biết rằng giới là nền tảng của trí
tuệ, là thềm thang của sự giải thoát, là cửa ngõ của
Niết Bàn; song chúng ta phải biết thực hành giới trong
từng hoàn cảnh, tình huống khác nhau khi tu tập; miễn là tâm
hồn định tĩnh, không tham đắm với ngoại cảnh xung quanh.
Giống như cây to lớn phải nảy cành thay lá nhưng không bao
giờ rời gốc của nó. Chúng ta cũng vậy, luôn uyển
chuyển về sự tu tập giới trong từng hoàn cảnh thích
hợp với mình không nên quá khắc khe hoặc phóng khoáng
trong việc tu tập giới. Chủ yếu là làm sao thân tâm chúng
ta được an tịnh, tướng mạo đoan trang trong một thái độ
thoải mái, lịch lãm. Có như vậy, ta mới hoà nhập vào
lối sống cuộc đời một cách dễ dàng khi hoá độ. Tinh
thần này đã được các vị thiền sư, tổ sư vận dụng nó
làm "kim chỉ nam" trong qúa trình hành đạo, cũng như
ngài Tùng Thẩm Pháp sư vì muốn khai ngộ cho đệ tử mà
tự tay mình bóp chết con mèo trước mặt các hàng đệ tử
với một tâm trạng lắng đọng vô tư; như vậy đối với
ngài có sát sanh chăng? Ngài Thiền Lão Thiền sư làm cố
vấn, ngài Thảo Đường làm quốc sư, ngài Đỗ Thuận
Thiền sư được vua Lê Đại Hành mời vào cung bàn luận
việc chính trị ngoại giao của nước nhà ... Như vậy, các
ngài đã tham đắm danh lợi, hoặc mất tính chất một tu sĩ,
hay phá giới chăng?
Là
đời hậu tấn, chúng ta phải noi theo tinh thần của các
vị tiền bối, luôn "phóng khoáng" trong một
"trật tự nề nếp" khi tu học giới mà không chấp
chặt ở một giới điều nào cả. Điều quan trọng nhất là
luôn duy trì và giữ vững thân tâm mình được thanh tịnh,
an lạc; chánh niệm tĩnh giác trong khi đi-đứng-nằm-ngồi-nói
năng-cư xử ... một cách lịch thiệp, ôn hoà và nhã nhặn.
Như vậy, ta đã biết tực hành giới một cách trọn vẹn.
Chúng ta đừng qua niệm rằng: giữ giới tức là mắt thấy
sắc không nhìn, tai không dám nghe tiếng, mũi không dám
ngửi mùi hương, lưỡi không chịu nếm hương vị, thân không
dám va chạm, ý không dám suy nghĩ; đó là những người
giữ giới theo sự cố chấp trong từng giới điều. Là con
người, lẽ dĩ nhiên chúng ta luôn cần những món ăn vật
chất để nuôi cơ thể và những cuộc vui giải trí hầu làm
thoải mãn tinh thần của con người khi mệt mỏi. Song, là
một tu sĩ Phật giáo, chúng ta phải ăn uống như thế nào
để khỏi bị bội thực; tiếp xúc với ngoại cảnh như
thế nào hầu không bị ô nhiễm, tham đắm và đừng để
mọi người chê bai. Đó mới là người biết sống, biết
tu trì giới luật trọn vẹn của Phật. Đạo Phật chúng ta
luôn luôn hoà mình vào cuộc đời, mãi mãi là bông sen mang
hương thơm đến cho đời và mọi người mà không bị tổn
hại đến hương sen. Vì vậy, hoa sen là một hình ảnh tượng
trưng cho tinh thần nhập thế của Đạo Phật, tượng trưng
một lối sống "tuỳ duyên bất biến" của người
tu sĩ trong thời hiện đại với sứ mạng :
*
"Truyền trì đạo mạch, tục diệm truyền đăng, xiển
dương Chánh pháp, lợi lạc quần sanh, báo Phật ân đức"
trên tinh thần "Đạo pháp - Dân tộc".
*
"Hương Chiên đàn Già la - Hương Sen và Vũ quý,
Ngần ấy loại hương vị - Không sánh bằng Giới hương"
Ngần ấy loại hương vị - Không sánh bằng Giới hương"
(Sandalwood
or Tagara, a lotus flower or a vasiki,
Among these kinds of perfume, the perfume of virtue is unsurpassed) (27)
Among these kinds of perfume, the perfume of virtue is unsurpassed) (27)
Hay:
*
"Ít giá trị hương này - Hương già-la, chiên đàn,
Chỉ hương người đức hạnh - Tối thượng toả thiên giới"
Chỉ hương người đức hạnh - Tối thượng toả thiên giới"
(Scanty is the scent that comes from Tagara and
sandalwood
but the perfume of those who possess virtue rises up to the gods as the highest.) (28)
but the perfume of those who possess virtue rises up to the gods as the highest.) (28)
III.
KẾT LUẬN (Conclusion):
Đề
tài : "Tìm hiểu về Giới Luật (SìLa) trong Phật
giáo" là một phần nhỏ trong phạm vi Tạng luật Phật
giáo, vì thế theo phạm vi của đề tài, người viết không
thể diễn đạt toàn bộ Tạng luật một cách chi tiết, mà
chỉ đề cập một phần nhỏ trong phần luật mà thôi. Đó
là sự nghiên cứu về nguyên từ Sìla (định nghĩa và
giới thiệu các giới điều của Sìla), cũng như đề cập
đến khái niệm và hiệu lực của Sìla trong sự tu tập .
Như
trên đã đề cập, Sìla của Phật giáo luôn dựa trên đạo
đức (morality) và lòng từ (compassion). Sự tuân
thủ giới luật (Sìla) là nhằm vào sự tu tập ý thức đạo
đức cá nhân hầu làm cho con người thoát khỏi mọi khổ
đau ở đời. Vì thế, đức Phật đã sử dụng nhiều phương
tiện thiện xảo bằng cách tạm thiết lập các giới điều
cho các đệ tử tuân hành hầu mang lại sự an lạc và
hạnh phúc cho con người.
Mặt
khác, Sìla của Phật giáo được bắt nguồn từ nỗi đau
khổ của con người. Có nghĩa là sự tuân thủ giới luật
(Sìla) không là gì cả; nó chỉ là những phương tiện tạm
thời hầu giải thoát con người từ những phiền não vô
minh và tham ái, đạt được sự thanh tịnh thân và tâm (giác
ngộ giải thoát) .
Sống
trong thời đại văn minh tiến bộ, chúng ta cần phải hiểu
và thực hành giới (sìla) một cách chính xác trong khi tu
tập. Có nghĩa là chúng ta không nên cố chấp vào những
giới điều của Phật như là một khuôn khổ ấn định không
bao giờ thay đổi, mà hãy quan sát nó bằng trí tuệ sâu xa
của chính mình trong khi tu tập giới. Mặc dù Sìla là nền
tảng của trí tuệ, là thềm thang của sự giải thoát, là
cách cửa của sự Niết bàn, chúng ta phải nhận thức như
thế nào khi tu tập giới trong nhiều điều kiện và hoàn
cảnh khác nhau với tâm an tịnh của chính mình. Hay nói cách
khác vị ấy nên uyển chuyển để tu tập giới trong những
tình huống thích hợp với chính mình và không nên giữ
một thái độ quá khắc khe hoặc quá lỏng lẻo trong khi tu
tập giới. Dĩ nhiên, là một con người, chúng ta cần phải
thưởng thức những món ăn ở đời để giữ gìn thân
thể và vui chơi nhiều trò chơi giải trí để thoải mái
tinh thần; Nhưng điều quan trọng là chúng ta ăn uống như
thế nào để không bị bội thực, và làm thế nào để thưởng
thức những thú vui ở đời mà vẫn luôn giữ tâm an tịnh
và giải thoát. Đó làngười biết tuân thủ giới luật
một cách đúng đắn và hợp lý.
"Hương các loài hoa thơm - Không bay ngược chiều gió,
Nhưng hương người đức hạnh - Ngược gió khắp tung bay,
Chỉ có bậc Chân nhân - Toả khắp mọi phương trời"(The scent of flowers does not travel against the wind,
nor that of Sandalwood, or of Tangara and Malika flowers.
But the fragance of good people travels even against the wind,
a good man pervades every quarter) (29)
Đặc
biệt chúng ta nhận thấy rằng: Bất kỳ xã hội nào muốn
phát triển và tồn tại lâu dài trong cuộc đời cần phải
có những con người xã hội đứng đắn. Con người xã
hội đứng đắn là con người hoàn hảo về ý thức đạo
đức cá nhân với sự vắng mặt của tham sân si ở nội tâm.
Sự tuân thủ giới luật không phải là một cái gông cùm
áp đặt con người làm điều này không làm điều kia, nó
chỉ giúp cho con người quay về với ý thức đạo đức cá
nhân của chính họ và diệt tận mọi phiền não khổ đau.
Con người sống trong sự thực hành giới có nghĩa là sống
trong ý thức đạo đức của chính mình vì thế, mục đích
của giới trong Phật giáo là giáo dục con người trở thành
người xã hội gương mẫu, người lý tưởng, và người hoàn
hảo trong xã hội .
Vai
trò của giới Phật giáo là làm cho con người giải thoát
tất cả mọi ràng buộc ở đời cũng như cải tạo những
hành vi bất thiện mà con người gây ra trong xã hội. Khi con
người sống trong giới (Sìla) và thân tâm trở nên an tịnh
không còn phiền não tham sân si, xã hội trở nên an bình, không
còn những vấn đề sát sanh, trọm cắp, v.v.; hoặc xung đột,
thù oán cũng như những vấn đề xuống cấp đạo đức cá
nhân. Về quan điểm môi trường sinh thái, con người xã
hội không những giữ gìn môi trường, cây cối, thảo
mộc, đường xá sạch và xanh ; mà còn bảo vệ và chăm sóc
chúng bằng ý thức đạo đức của chính mình. Kết quả là
xã hội và môi trường sinh thái ngày càng phát triển và
tồn tại lâu dài từ trong ánh mắt và trái tim của chúng
ta. Đối với giáo dục, giới Phật giáo có một nền giáo
dục tâm lý vượt hẳn trên nền giáo dục ở đời vì tính
siêu việt của nó. Điều này có nghĩa là giới Phật giáo
có một phương pháp giáo dục tuyệt vời diệt tận mọi
phiền não hầu mang lại an lạc hạnh phúc tối thượng cho
con người. Từ quan điểm này, vai trò của giới Phật giáo
có sự đóng góp to lớn đói với sự phát triển xã hội
hiện nay trong nhiều phương diện khác nhau.
Bên
cạnh , vì tầm quan trọng về vai trò của giới (Sìla) trong
giai đoạn hiện nay, người viết chỉ hy vọng rằng chúng
ta nên có những công trình nghiên cứu rõ ràng về giới
của Phật giáo qua hai quan điểm Nam truyền và Bắc truyền
Phật giáo, hoặc nên có sự nghiên cứu nghiêm túc về Sìla
dựa theo lời dạy nguyên thủy của đức Phật mà không
dựa theo tư tưởng của các trường phái khi các nhà học
giả Phật giáo muốn thực hiện công trình của mình. Tại
sao? Vì mỗi trường phái đều có những khái niệm về Sìla
riêng biệt và khác nhau; do đó, nguyên từ của Sìla ngay càng
xa rời với ý nghĩa nguồn gốc của nó, cũng như mất đi
vai trò quan trọng của nó trong cuộc sống con người hiện
nay.
Ta
có thể nói: với tính uyển chuyển năng động và tích
cực của việc thực hành Sìla, giới Phật giáo luôn thích
nghi với mọi tình huống hoàn cảnh xã hội, và luôn hiện
hữu trong cuộc đời như là một sự cần thiết của xã
hội ngày nay. Có như vậy đạo Phật mới đứng vững và
hiện hữu được lâu dài ở mọi thời gian và không bao
giờ bị mai một, như lời phát biểu của cựu thủ tướng
Srilanka Bandaranaike đã nhấn mạnh:
"Phật
giáo sẽ trường tồn như mặt trời, mặt trăng và loài người
hiện hữu trên mặt đất; vì Phật giáo là tôn giáo của
con người, của nhân loại nói chung" (Buddhism will last as
long as the sun and moon last and the human race exists upon the earth,
for it is the religion of man, of humanity as a whole) (30)
Delhi, ngày
20/02/2001
-ooOoo-
Bibliography
I.
PRIMARY SOURCES:
1.
Rhys Davids, T.W. (trans), Sacred Books of the Buddhists:
Dialogues of the Buddha, and F.Max Muller (ed), vol. II, part I, the
fifth edition reprinted, Oxford: P.T.S., 1992.
2.
Rhys Davids, T.W and C.A.F. (trans), Sacred Books of the
Buddhists: Dialogues of the Buddha, vol. III-IV, part II-III, the
fourth edition reprinted, Oxford: P.T.S., 1989.
3.
Horner, I.B. (trans), The Book of the Discipline - Vinaya
Pitaka, vol. III, Oxford: PTS, 1993.
4.
Rhys Davids, T.W., and Hermann Oldenberg (trans), The Sacred
Books of the East: Vinaya Texts, and F. Max Muller (ed), vol. 13,
Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1996.
5.
Buddhaghosa, B. The Path of Purification, trans. by Nànamoli,
the 4th edition, Sri lanka : Buddhist Publication Society, 1979.
II.
SECONDARY SOURCES:
1.
Vincent A. Smith, The Edicts of Asoka, Delhi: Munshiram
Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., 1992.
2.
Edward J. Kormondy, The Concept of Ecology, 3rd edition,
Delhi: Prentice - Hall of India Pvt. Ltd., 1994.
3.
Kern, H., Manual of Indian Buddhism, Delhi: Motilal
Banarsidass, 1989.
4.
Prof. Sanghasen Singh, A Study of the Sphutàrthà
Srighanaca-rasangraha Tika, Delhi: Buddhist Text Society, 1975.
5.
Saddhàtissa, H., Buddhist Ethics: Essence of Buddhism,
London: George Allen and Unwin Ltd., 1970.
6.
Nikunja Vihari Banerjee (trans), The Dhammapada, Delhi:
Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., 1989.
III.
DICTIONARIES:
1.
Rhys Davids, T.W., and William Stede, Pali-English Dictionary,
Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1997.
2.
Monier-William, M. Sanskrit-English Dictionary, Delhi:
Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1999.
3.
Cowie, A.P. (chief-editor), Oxford Advanced Learner’s
Encyclopaedic Dictionary, London: Oxford University Press, Oxford,
1992.
4.
Paul Procter (chief-editor), Cambridge International
Dictionary of English, London: Cambridge University Press,
Cambridge, 1995.
5.
William Edward Soothill and Lewis Hodous (compilator), A
Dictionary of Chinese Buddhist Terms, Delhi: Motilal Banarsidass,
1997.
Chú
thích:
(1) N. V.
Banerjee (trans), The Dhammapàda, verse 183, p.103. (Pháp Cú, kệ
183, trang 103).
(2) Ibid., verse
281, p. 109. (Như trên, kệ 281, trang 109).
(3) Vincent A.
Smith, The Edicts of Asoka, pp. 6 - 8. (Những Sắc Dụ của vua A
Dục, từ trang 6-8).
(4) Edward J.
Kormondy, Concept of Ecology, Preface xiv. (Khái niệm về Môi Trường,
Lời nói đầu, xiv)
(5) N.V.Banerjee
(trans), op.cit.,verse 49, p.126. (như trên, kệ 49,trang 126)
(6) A. P. Cowie
(ed) , Oxford Advanced Learner’s Dictionary, p.704. (Từ Điển
Oxford nâng cao, trang
704).
(7) Paul Proctor
(ed) , Cambridge International Dictionary of English, p. 1109. (Từ Điển
Anh Văn quốc
tế Cambridge, trang 1109).
(8) William
Edward Soothill and Lewis Hodous (compilers) , A Dictionary of Chineses
BuddhistTerms,
p.239. (Từ Điển Thuật Ngữ Phật Học Trung Quốc, trang
239).
(9) B.
Buddhaghosa, The Path of Purification, p.7. (Thanh Tịnh Đạo, trang
7)
(10) T. W. Rhys
Davids and W. Stede, Pàli-English Dictionary, p.712. (Từ Điển Pàli-Anh,
trang 712).
(11) M.
Monier-William, Sanskrit-English Dictionary, p. 1079. (Từ Điển
Sanskrit-Anh, trang 1079).
(12) T. W. Rhys
Davids and H. Oldenberg (trans), The Sacred Book of the East, vol. 13,
pp. 3-68 (Thánh Điển
Phương Đông, tập 13, từ trang 3 đến trang 68)
(13) I. B.
Horner (trans), The Book of Discpline: Vinaya Pitaka, vol.III, pp.
156-176. (Luật Tạng, tập III,
từ trang 156 đến trang 176.)
(14) T. W. Rhys
Davids and H. Oldenberg, op. cit., p.211. (như trên, trang 211)
(15) H. Kern,
Manual of Indian Buddhism, p.70. (Sách Giáo Khoa về Phật Giáo
Ấn Độ, trang 70.)
(16) H. Saddhàtissa,
Buddhist Ethics: Essence of Buddhism, pp. 87-112. (Đạo Đức Phật
Giáo: Nền Tảng
của Phật Giáo, từ trang 87 đến trang 112).
(17) Prof.
Sanghasen Singh, A Study of the Sphutarthà Srighanacarasangraha Tika,
p. 14.
(18) T. W. and
C. A. F. Rhys Davids (trans), Sacred Book of the Buddhists: Dialogues of
the Buddha, vol. IV, part III, pp. 180-181. (Thánh Kinh
Phật Giáo: Trường Bộ kinh, chương IV, phần III, trang 180đến
trang 181).
(19) Ibid., p.
181. (Như trên, trang 181).
(20) Ibid., pp.
181-182. (Như trên, từ trang 181 đến trang 182)
(21) Ibid., p.
182. (Như trên, trang 182).
(22) Ibid.,
pp.182-183. (Như trên, từ trang 182 đến trang 183).
(23) T. W. Rhys
Davids (trans), op. cit., vol. II, part I, p. 79. (Như trên, chương
II, phần I, trang 79).
(24) Ibid., p.
82. (Như trên, trang 82).
(25) Ibid.,vol
III, part II,p.91. (như trên, chương III, phần II, trang 91.)
(26) Ibid,
pp.90-91. (như trên,, từ trang 90 đến trang 91)
(27) N. V.
Banerjee (trans), op.cit.,verse 55, p.127. (như trên, kệ 55, trang
127).
(28) Ibid.,verse
56, p.127. (như trên, kệ 56, trang 127).
(29) Ibid.,verse
54, p.127. (như trên, kệ 54, trang 127).
(30) Phật giáo
dưới mắt các nhà trí thức, tr. 56, Thích Tâm Quang dịch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét