QUÁ TRÌNH TRUYỀN DỊCH & HOẰNG DƯƠNG LUẬT ĐIỂN ĐẠI
TIỂU THỪA Ở TRUNG QUỐC
TN.Như Lộc
Sau khi Đức Phật Thích Ca
nhập Niết bàn tại rừng Ta La Song Thọ ở nước Câu Thi Na, vừa làm lễ trà
tỳ xong, ngài Đại Ca Diếp liền triệu tập 500 vị La hán tại hang Thất
Diệp để kiết tập Kinh Luật, sử Phật giáo gọi là Ngũ bách kiết tập. Trong
kỳ kiết tập này, ngài Đại Ca Diếp ở ngôi chủ tọa, ngài A Nan kiết tập
tạng Kinh, ngài Ưu Ba Ly kiết tập tạng Luật, tụng lại lời Như Lai đã chế
chỉ trải qua 80 lần mới tụng xong, nên sử Phật giáo gọi là Bát thập tụng
luật.
Phật nhập diệt trải qua
khoảng hơn 100 năm sau, do sự bất đồng ý kiến về việc thọ trì giới luật
giữa nhóm Tỳ kheo trẻ ở Bạt Kỳ và nhóm trưởng lão Tỳ kheo, nên giáo đoàn
đệ tử Phật quyết định tổ chức cuộc kiết tập lần 2, có tất cả 700 vị La
hán tham dự nên sử Phật giáo gọi là Thất bách kiết tập. Mục đích của lần
kiết tập này là giải quyết sự bất đồng trong việc thọ trì giới luật,
nhưng kết quả lại không giải quyết được gì, nên sau cuộc kiết tập lần 2
này, giáo đoàn đệ tử Phật chia làm 2 bộ phái:
1. Đại chúng bộ:
Gồm những Tỳ kheo trẻ có tư tưởng cấp tiến muốn thay đổi một số giới
điều sao cho hợp với xu thế đương thời. Do số lượng Tỳ kheo trẻ đông nên
từ đó đặt thành tên, gọi là Đại chúng bộ, cũng gọi là Ma Ha Tăng Kỳ.
Trải qua một thời gian sau, do sự thấy nghe hiểu biết có cạn sâu rộng
hẹp sai khác và ai cũng cố chấp sự thấy nghe hiểu biết của mình, nên từ
Đại chúng bộ căn bản lại phân xuất làm 8 bộ phái, tổng cộng trước sau có
9 bộ.
2. Thượng tọa bộ:
Gồm những vị trưởng lão chủ trương bảo thủ duy trì lời Phật dạy, không
muốn thay đổi. Do số lượng ít và đều là bậc thượng tọa trưởng lão nên từ
đó đặt thành tên gọi là Thượng tọa bộ. Trải qua một thời gian sau, cũng
do sự thấy nghe hiểu biết có cạn sâu rộng hẹp sai khác và ai cũng cố
chấp sự thấy nghe hiểu biết của mình, nên từ Thượng tọa bộ căn bản lại
phân xuất làm 10 bộ phái, tổng cộng trước sau có 11 bộ.
Như vậy cả 2 bộ phái Đại
chúng và Thượng tọa trước sau có tất cả 20 bộ phái, tùy theo giải hạnh
của mỗi bộ mà trong giới luật cũng phân thành 20 bộ loại. Tuy nhiên chỉ
có 6 bộ phái với 6 bộ luật là được phiên dịch từ văn Phạn sang văn Hán
trải qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
1. Tát Bà Đa bộ:
cũng gọi là Hữu bộ, gọi đủ là Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ, dùng luật Thập
tụng làm căn bản, đời Dao Tần ngài Phất Nhã Đa La và ngài La Thập dịch
sang văn Hán.
2. Tân Tát Bà Đa bộ:
cũng gọi là Căn Bản Hữu bộ, gọi đủ là Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ.
Tất cả luật điển thuộc bộ phái này đến đời Đường ngài Tam Tạng Nghĩa
Tịnh dịch sang văn Hán.
3. Di Sa Tắc bộ:
cũng gọi là Hóa Địa bộ, dùng luật Ngũ phần làm căn bản. Đời Lưu Tống
thuộc Nam triều, ngài Phật Đà Thập và ngài Trúc Đạo Sanh phiên dịch sang
văn Hán.
4. Đàm Vô Đức bộ:
cũng gọi là Pháp Tạng bộ, dùng luật Tứ phần làm căn bản. Đời Dao Tần
ngài Phật Đà Da Xá và ngài Trúc Phật Niệm dịch sang văn Hán.
5. Ca Diếp Di bộ:
cũng gọi là Ẩm Quang bộ, dùng luật Giải thoát làm căn bản. Đời Nguyên
Ngụy thuộc Bắc triều, ngài Bát Nhãn Lưu Chi dịch Giải Thoát Giới kinh
sang văn Hán.
6. Đại chúng bộ: cũng gọi là
Ma Ha Tăng Kỳ, dùng luật Ma Ha Tăng Kỳ làm căn bản. Đời Đông Tấn, ngài
Phật Đà Bạt Đà La và ngài Pháp Hiển dịch sang văn Hán.
Trong 6 bộ luật căn bản của 6
bộ phái này, chỉ có 4 bộ luật căn bản của 4 bộ phái là được truyền dịch
phổ biến ở Trung Quốc, đó là: luật Thập tụng của Tát Bà Đa bộ, luật Ngũ
phần của Di Sa Tắc bộ, luật Tứ phần của Đàm Vô Đức bộ và luật Ma Ha Tăng
Kỳ của Đại chúng bộ.
Phật pháp bắt đầu truyền qua
Trung Quốc vào đời vua Hán Hoàn Đế nhà Đông Hán, do ngài An Thế Cao
người nước An Tức đến Trung Quốc trú ở Lạc Dương dịch kinh, phần nhiều
thuộc về kinh điển Tiểu thừa, trong số đó có một số ít thuộc về luật
điển Tiểu thừa như:
- Phật thuyết phạm giới tội
báo khinh trọng kinh - 1 quyển.
- Đại Tỳ kheo tam thiên oai
nghi - 2 quyển.
- Phật thuyết Xá lợi Phất hối
quá kinh - 2 quyển.
Mãi đến đời Tam Quốc (nhà
Đông Hán diệt vong, Trung Quốc phân chia làm 3 nước là Ngụy, Thục và
Ngô), tại nước Tào Ngụy đến đời vua Ngụy Phế Đế có ngài Đàm Ma Ca La
người Trung Ấn đến Lạc Dương truyền dịch và hoằng dương giới luật. Vào
thời đó ở Lạc Dương tuy đã có Phật pháp và tự viện, nhưng giới Tăng sĩ
chỉ là tự cạo đầu đắp y tự xưng Sa môn, chớ chưa từng đăng đàn bạch tứ
yết ma thành tựu đắc xứ sở Tỳ kheo. Cho nên việc đầu tiên phải làm là
ngài Đàm Ma Ca La dịch bộ luật Tăng Kỳ giới tâm sang văn Hán cho các
Tăng sĩ ở Lạc Dương biết phương hướng hành trì, sau đó cùng ngài Đàm Đế
dịch luật Tứ phần Đàm Vô Đức yết ma sang văn Hán và tiến hành việc thỉnh
mời 10 Sa môn từ Thiên Trúc đến Lạc Dương thiết lập 1 giới đàn như pháp
như luật truyền trao giới pháp cho các Tăng sĩ ở Lạc Dương. Đây là giới
đàn đầu tiên ở Trung Quốc và Sa môn Trung Quốc là Chu Sĩ Hành là người
được truyền giới đầu tiên. Dưới đời Tào Ngụy còn có ngài Khương Tăng
Khải dịch Tứ phần tạp yết ma.
Nhà Tấn thống nhất đất nước,
dưới đời Tây Tấn, ngài Trúc Pháp Hộ cũng có dịch một số ít thuộc về luật
điển sang văn Hán:
- Tỳ kheo ni giới - 1 quyển;
- Giới cụ - 1 quyển; - Hối quá - 1 quyển; - Tam phẩm hối quá - 1 quyển.
Cuối đời Tây Tấn, Trung Quốc
bước vào thời kỳ Ngũ Hồ loạn Hoa, do 5 bộ tộc lớn ở phương Bắc mà người
Hán ở Trung nguyên gọi là rợ Hồ kéo quân sang xâm chiếm lãnh thổ Trung
nguyên, trước sau thành lập 16 nước xưng đế ở Trung nguyên gồm có:
1. Nhị Triệu: Tiền Triệu và
Hậu Triệu
2. Tam Tần: Tiền Tần (Phù
Tần), Hậu Tần (Dao Tần) và Tây Tần.
3. Tứ Yến: Tiền Yến, Hậu Yến,
Nam Yến và Bắc Yến.
4. Ngũ Lương: Tiền Lương, Hậu
Lương, Tây Lương, Nam Lương và Bắc Lương.
Cộng với nước Hạ và nước
Thành tổng cộng là 16 nước, nhưng chỉ có 5 nước: Tiền Triệu, Hậu Triệu,
Tiền Tần, Hậu Tần và Bắc Lương là có Phật giáo. Tuy cả 5 nước này đều có
Phật giáo, nhưng chỉ có dưới đời Tiền Tần, Hậu Tần và Bắc Lương mới có
truyền dịch luật điển Đại Tiểu thừa.
- Dưới đời Tiền Tần, ngài Đàm
Ma Trì và Trúc Phật Niệm dịch Thập Tụng Tỳ kheo - Tỳ kheo Ni giới bổn.
- Dưới đời Hậu Tần có:
+ Ngài Phất Nhã Đa La và ngài
La Thập dịch quảng luật Thập Tụng.
+ Ngài Trúc Phật Niệm dịch
Giới nhân duyên kinh.
+ Ngài Phật Đà Da Xá và ngài
Trúc Phật Niệm dịch quảng luật Tứ phần.
+ Ngài Phật Đà Da Xá dịch
luật Tứ phần giới bổn.
+ Ngài La Thập dịch Thanh
tịnh Tỳ Ni phương quảng kinh, kinh Phạm Võng và Thọ Bồ tát giới nghi quỹ
đều là luật điển Đại thừa được ngài truyền dịch đầu tiên ở Trung Quốc.
- Dưới đời Bắc Lương: ngài
Đàm Vô Sấm truyền dịch Bồ tát giới bổn và là người truyền thọ giới Bồ
tát đầu tiên ở Trung Quốc. Tương truyền trong thời gian ngài trú ở Lương
Châu nước Bắc Lương, sau khi dịch xong giới bổn Bồ tát, có rất nhiều
người đến xin ngài truyền thọ giới Bồ tát, trong số đó có Sa môn Đạo Tấn
là người ai cầu tha thiết nhất, nhưng ngài vẫn không chịu truyền trao,
chỉ bảo Sa môn Đạo Tấn phải trở về sám hối nghiệp chướng. Sa môn Đạo Tấn
nghe lời trở về sám hối trong 7 ngày, qua ngày thứ 8 trở lại chưa kịp mở
miệng đã bị ngài Đàm Vô Sấm xua đuổi bảo rằng chưa được. Sa môn Đạo Tấn
đành phải trở về chí thành sám hối trong 3 năm, thành khẩn đến nỗi cảm
được Phật Thích Ca và chư Bồ tát hiện thân xoa đầu và trao cho giới Bồ
tát. Hôm sau khi Sa môn Đạo Tấn đến, vừa trông thấy ngài Đàm Vô Sấm đã
vui vẻ nói: Ngươi đã đắc giới rồi, nay ta sẽ chứng minh cho ngươi. Nói
xong ngài Đàm Vô Sấm ở trước tượng Phật giảng lại giới tướng Bồ tát cho
Sa môn Đạo Tấn nghe. Từ đó về sau có hơn một ngàn người lần lượt đến chỗ
ngài Đàm Vô Sấm cầu thọ giới Bồ tát. Ngoài Bồ tát giới bổn, ngài Đàm Vô
Sấm còn dịch Bồ tát Địa trì và Bồ tát Ưu Bà Tắc giới văn.
Về luật điển Đại thừa Bồ tát
giới có chia làm 2 hệ phiên dịch và chú sớ:
1. Hệ Phạm Võng Bồ tát giới
có:
- Kinh Phạm Võng 2q, đời Dao
Tần ngài La Thập dịch sang văn Hán
- Kinh Bồ tát Anh Lạc 1q, đời
Dao Tần ngài Trúc Phật Niệm dịch
Về chú sớ kinh Phạm Võng có:
- Bồ tát giới nghĩa sớ 2q,
đời Tùy ngài Trí Giả soạn
- Bồ tát giới sớ 5q, đời
Đường ngài Pháp Tạng soạn
- Bồ tát giới sớ 3q, đời
Đường ngài Nghĩa Tịnh soạn
Nội dung của giới Bồ tát
thuộc hệ Phạm Võng có 10 giới trọng, tăng tục đều được thọ gọi là giới
đốn lập.
2. Hệ Du già Bồ tát giới có:
- Bồ tát giới bổn 1q, đời Bắc
Lương ngài Đàm Vô Sấm dịch
- Bồ tát giới bổn 1q, đời
Đường ngài Huyền Trang dịch
- Bồ tát thiện giới kinh 1q,
đời Nam triều - Lưu Tống ngài Cầu Na Bạt Ma dịch sang văn Hán.
Về chú sớ có Bồ tát giới bổn
tiên yếu 1q, đời Minh ngài Trí Húc soạn. Nội dung của giới Bồ tát thuộc
hệ Du già có 4 tha thắng xứ và lấy 3 tụ tịnh giới làm căn bản. Tuy cũng
nhiếp cả tăng tục, nhưng lại nghiêng nặng về 7 chúng xuất gia, gọi là
giới tiệm lập.
Đồng thời với 16 nước Ngũ Hồ
ở phương Bắc thì ở phương Nam vẫn còn thuộc về nhà Đông Tấn, dưới đời
Đông Tấn có ngài Phật Đà Bạt Đà La cùng ngài Pháp Hiển dịch quảng luật
Ma Ha Tăng Kỳ và Ma Ha tăng kỳ giới bổn.
Ở phương Nam sau khi nhà Đông
Tấn diệt vong và ở phương Bắc nước Bắc Ngụy tiêu diệt nước Bắc Lương
thống nhất ở phương Bắc thì Trung Quốc bước vào thời kỳ Nam Bắc triều.
Dưới thời Nam Bắc triều, các nước Nam triều Lương, Nam triều Trần, các
vua như Lương Võ Đế, Trần Văn Đế đều thọ Bồ tát giới và phong trào thọ
Bồ tát giới thịnh hành từ đó.
- Dưới đời Nam triều Lưu Tống
có:
+ Ngài Phật Đà Thập và ngài
Trúc Đạo Sanh dịch Di Sa Tắc Ngũ phần quảng luật
+ Ngài Phật Đà Thập dịch Ngũ
phần giới bổn
+ Ngài Cầu Na Bạt Ma dịch Bồ
tát giới địa, Tứ phần luật yết ma và Ưu Bà Tắc giới kinh.
+ Ngài Tăng già Bạt Ma dịch
Tát Bà Đa Tỳ ni Ma Đắc Lặc Già và Ưu Ba Ly vấn kinh.
- Dưới đời Nam triều Tiêu Tề,
ngài Tăng già Bạt Ma dịch Thiện kiến luật tỳ bà sa.
Dưới đời Nam truyền Trần có
ngài Chân đế dịch Nhị thập nhị Minh Liễu luận. Nhà Tùy sau khi thống
nhất Nam Bắc triều, vua Tùy Dưỡng đế trước khi lên ngôi cũng thọ giới Bồ
tát nơi Đại sư Trí Giả. Ngài Trí Giả cũng có soạn Phạm Võng Bồ tát giới
kinh nghĩa sớ, ngài Xà Na Quật Đa dịch Đại thừa tam tụ sám hối kinh.
Nhà Đường tiêu diệt nhà Tùy,
dưới đời Đường các luật sư nối tiếp nhau sớ giải luật Tứ phần và ra sức
hoằng dương, khiến cho luật tông phát triển đa dạng. Có tất cả 3 tông
chuyên hoằng dương luật Tứ phần ví như 3 cái chân vạc, mỗi tông đứng về
một khía cạnh khác nhau để sớ giải luật Tứ phần:
1. Tướng Bộ tông: do ngài
Pháp Lệ khai sáng, ngài y cứ theo luận Thành Thật để lập luật nghĩa và
soạn luật sớ. Có 3 bộ luật sớ làm căn bản cho tông Tướng Bộ, đó là Tứ
phần luật sớ 10q, Yết ma sớ 3q và Xả sám nghi khinh trọng sự 1q.
2. Nam Sơn tông:
do ngài Đạo Tuyên khai sáng, ngài chủ trương hình thức của luật Tứ phần
tuy thuộc Tiểu thừa, nhưng nội dung thuộc về Đại thừa. Mục đích để dung
hòa luật Tiểu thừa vào Đại thừa, ngài lấy diệu lý nhất thừa làm chỉ thú
để lập luật nghĩa và soạn luật sớ. Có 5 bộ luật sớ làm căn bản cho luật
tông Nam Sơn gọi là Ngũ Đại bộ Nam Sơn luật tông, đó là:
- Tứ phần luật san bổ tùy cơ
yết ma sớ
- Tứ phần luật san phiền bổ
khuyết Hành sự sao
- Tứ phần luật Thập tỳ ni
nghĩa sao
- Tứ phần Phật Hàm chú giới
bổn sớ
- Tứ phần luật tỳ kheo ni
sao.
3. Đông Tháp tông:
do ngài Hoài Tố khai sáng, ngài đứng trên lập trường của Nhất thiết Hữu
bộ, y cứ theo luận Đại tỳ bà sa và luận Câu Xá để lập luật nghĩa và soạn
luật sớ, ngài soạn Tứ phần luật khai tông ký 20q làm căn bản cho tông
Đông Tháp. Trong bộ sớ này, ngài nêu lên những chỗ sai lầm trong luật sớ
của ngài Pháp Lệ thuộc tông Tướng Bộ, nên người đương thời gọi luật sớ
của ngài Hoài Tố là Tân sớ, còn luật sớ của ngài Pháp Lệ là Cựu sớ.
Ngoài bộ luật sớ trên ngài Hoài Tố còn dịch:
- Tứ phần luật tỳ kheo giới
bổn
- Tứ phần luật tỳ kheo ni
giới bổn
- Tứ phần luật tăng yết ma.
Đến cuối đời Đường thì chỉ
còn 1 luật tông Nam Sơn là chiếm địa vị độc tôn trong sự hoằng dương
luật Tứ phần mãi cho đến các triều đại sau này. Ngoài các luật sớ của
các luật sư khai tông nói trên, ngài Huyền Trang cũng có dịch luật Du
già Bồ tát giới bổn và ngài Pháp Tạng soạn Phạm Võng Bồ tát giới sớ,
ngài Nghĩa Tịnh soạn Phạm Võng Bồ tát giới sớ và dịch hầu hết những bộ
luật thuộc về Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ.
Từ đây trở về sau này các đệ
tử truyền thừa của tông Nam Sơn cũng viết nhiều luật sớ và ra sức hoằng
dương luật Tứ phần. Dưới đời Minh, các ngài Vân Thê, Ngẫu Ích tuy là tổ
của tông Tinh Độ cũng viết nhiều luật sớ để xiển dương Thiền giáo luật
đều quy về Tịnh độ, trong đó giới luật là nền tảng. Cuối đời Minh, có
các ngài Hoằng Tán, ngài Tam Muội... đều ra sức phục hưng giới luật,
ngài Tam Muội tuy là đệ tử truyền thừa đời thứ 14 của luật tông Nam Sơn
nhưng ngài xem trọng kinh Phạm Võng hơn luật Tứ phần, soạn Phạm Võng
kinh trực giải 4q để hoằng truyền. Đệ tử của ngài Tam Muội là ngài Kiến
Nguyệt kế thừa sự nghiệp của thầy tại núi Bảo Hoa, tuy cũng giảng kinh
Phạm Võng nhưng lại soạn nhiều luật sớ về luật Tứ phần để chấn hưng luật
tông Nam Sơn vào đời Thanh. Cho nên chùa Long Xương trên núi Bảo Hoa đến
đời ngài Kiến Nguyệt không những là nơi tổ chức đại giới đàn cho giới tử
thập phương quy tụ về thọ giới pháp, mà còn là nơi có khuôn phép mẫu mực
cho sự truyền giới vào đầu đời Thanh. Bởi vì cuối đời Minh đầu đời nhà
Thanh luật tông suy vi, nếu ngài Kiến Nguyệt không ra sức chấn hưng luật
tông Nam Sơn và bản thân không làm mô phạm cho người học giới thì luật
tông suy vi không thể nào cứu vãn nổi. Cho nên người đương thời đều ca
tụng ngài là Đạo Tuyên luật sư tái thế. Cho đến cuối đời nhà Thanh bước
qua thời cận đại vẫn có nhiều vị với tâm nguyện phục hưng giới luật nên
cũng đã viết nhiều sớ giải về luật Tứ phần như ngài Từ Chu, ngài Hoằng
Nhất. Bởi vì đối với người xuất gia, tỳ ni là thọ mạng của Chánh pháp,
tạng tỳ ni còn thì Phật pháp còn, Chánh pháp mới tồn tại lâu dài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét