Tịnh Nghiệp Tự :
Tổ đình của Luật tông,
nằm ở tỉnh Thiểm Tây huyện Trường An, diện tích hơn năm mẫu, xây vào
đời Tùy (581-618). Ðời Ðường là đạo tràng của cao tăng Ðạo Tuyên khai tổ
của Luật tông. Luật học là nền tảng của Phật pháp, đứng đầu trong ba vô
lậu học Giới Ðịnh Huệ. Từ Ðông Hán đến Nam Bắc triều các bộ Thập tụng
luật, Tứ phần luật, Ngũ phần luật và Tăng Kỳ luật lần lượt được Hán
dịch, riêng Tứ phần luật được truyền bá cực thịnh. Ðời Ðường hình thành
ba tông Tướng bộ, Ðông tháp và Nam sơn, sau này Ðông tháp và Tướng bộ
suy vi, chỉ có Nam sơn tông do ngài Ðạo Tuyên sáng lập là lưu truyền cho
tới nay. Như đạo tràng trứ danh của Luật tông tại Nam kinh Bảo hoa sơn
do Kiến Nguyệt Kế Siêu sáng lập được truyền thừa từ ngài Cổ Tâm và đệ tử
là Tam Muội đời Minh mạt trùng hưng Nam sơn Luật tông tại Linh Cốc tự.
Ðạo Tuyên luật sư
sinh năm Khai Hoàng thứ 16 (596) đời Tùy, 16 tuổi xuất gia học Tứ phần
luật nơi cao Tăng Huệ Quang, cùng pháp hệ với Nhật bản Luật tông khai tổ
Giám Chân Hòa thượng, ngài trứ thuật và phát triển Luật học, gây ảnh
hưởng lớn trong Trung Quốc Phật giáo sử. Tịnh Nghiệp tự nhân ngài trụ
tích đã chiếm được địa vị trọng yếu là tổ đình của Nam sơn Luật tông.
Ngài tịch năm Càn Phong thứ 2 (667) đời Ðường thọ 71 tuổi. Tháp của ngài
được xây ngoài chùa, vẫn được bảo tồn cho tới nay.
Ðời
Ðường Tịnh Nghiệp tự là trung tâm nghiên cứu Luật tạng, lừng lẫy một
thời, từ Minh Thanh đến Dân Quốc được trùng tu nhiều lần, quy mô vẫn như
xưa bao gồm Gìa Lam điện, Ðại Hùng điện, Quan Âm điện, hai bên đông tây
có Trai đường, Thiền đường, Pháp Hoa đường, Khách đường và Tăng
phòng... Trước đại điện có hai cây Ðỗ trọng tương truyền do chính ngài
Ðạo Tuyên trồng.
Thảo Ðường Tự :
Cách
Lô huyện tỉnh Thiểm Tây 20km dưới chân núi Khuê Phong, bốn bề là đồi
núi, "Thảo đường yên vụ" là một trong Quan Trung bát cảnh, miêu tả cảnh
hoàng hôn khi tịch dương phản chiếu, một màn mây khói phủ kín Thảo đường
tạo nên một bức họa thiên nhiên thần kỳ. Chùa xây vào đời Diêu Tần năm
Hoằng Thủy thứ ba (401) là đạo tràng phiên dịch kinh điển quy mô lớn
nhất ở Trung Quốc và cũng là một trong các tổ đình của Tam Luận tông, vì
Thánh tăng Cưu Ma La Thập trụ tích 13 năm ở đây.
Ngài La Thập
người xứ Quy Tư nay thuộc hai huyện Khố Xa và Nhã Sa tỉnh Tân Cương,
năm Hoằng Thủy thứ ba (401) Tần chúa Diêu Hưng thỉnh ngài từ Cô tạng ở
Kinh châu về Trường An, ban đầu ở Tiêu Dao viên sau xây chùa Thảo Ðường
làm đạo tràng cho ngài thuyết pháp và dịch kinh. Ngài viên tịch năm
Hoằng Thủy thứ 15. Theo Xuất Tam Tạng Ký Tập trong suốt 13 năm dưới sự
hộ trì của Diêu Hưng ngài phiên dịch Kinh Luật Luận và Tạp truyện tổng
cộng 35 bộ hơn 294 quyển, các kinh luận trọng yếu về Tịnh, Thiền và Luật
đều được dịch như Trung Quán, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm...giúp cho Ðại thừa
Phật giáo ở Trung Quốc được hình thành và phát triển mạnh đưa đến sự
khai tông lập phái. Tường chùa khắc bài thơ của Ðường Thái tông có hai
câu : "Thập vạn lưu sa lai chấn tích, tam thiên đệ tử cộng phiên kinh",
miêu tả sự quy mô và hưng thịnh của dịch trường thời ấy.
Nhân
ba bộ luận Trung Quán, Bách luận và Thập Nhị Môn luận được ngài phiên
dịch mà Tam luận tông được thành lập, ngài được tôn là Khai tổ, Thảo
Ðường tự được coi là Tổ đình. Ðời Ðường Hoa Nghiêm ngũ tổ Khuê Phong
Tông Mật trụ nơi đây không chỉ hoằng dương giáo nghĩa Hoa Nghiêm còn
truyền Thiền học, ngài còn trước tác bộ Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương
Luận để dậy tu tập Tịnh Ðộ, nên chùa này trở thành đạo tràng Thiền Tịnh
song tu.
Tông Mật đại sư người
Tây sung tỉnh Tứ xuyên, tục tính Hà, còn để chỏm đã thông kinh sử, rất
khí tiết và có đại chí. Năm Nguyên hòa thứ 2 lên kinh ứng thí, ngang qua
Toại châu (nay là Toại ninh ở Tứ xuyên) gặp Hòa thượng Ðạo Viên thuyết
pháp, nghe xong tỉnh ngộ, liền xả tục nhập chân. Một hôm theo đại chúng
ứng cúng, ngồi bên dưới lần lượt thọ kinh, được chương thứ 12 kinh Viên
Giác cảm ngộ đến chẩy nước mắt, đem sở ngộ trình bầy với thầy. Viên công
an ủi : "Con sẽ là người hoằng hóa pháp viên đốn, đừng ngừng nơi một
góc, hãy tiến lên". Ngài từ tạ thầy lên đường hành hóa, gặp một vị Tăng
bệnh bên bờ suối trao cho Hoa Nghiêm sớ, ngài vốn chưa từng học pháp
này, mà vừa mới xem qua đã thông suốt như đã biết từ bao giờ, liền đến
Thượng đô bái kiến Trừng Quán quốc sư lậy làm thầy. Quốc sư bảo : "Người
có thể cùng ta dạo khắp Tỳ Lô Hoa Tạng đó chính là ông". Sau ngài trụ ở
Khuê Phong lan nhã chùa Thảo Ðường núi Chung Nam. Niên hiệu Thái hòa
giảng kinh ở Ðại nội được vua ban Tử cà sa. Hội xương nguyên niên (841)
tọa hóa, thọ 62 tuổi, để lại các kinh sớ Pháp Hoa, Viên Giác và Tứ Phần
Luật sớ sao cùng Hoa Nghiêm Nguyên Nhân Luận tổng cộng hơn 100 quyển.
Vua ban hiệu Ðịnh Huệ.
Ðời
Ðường các vị Tăng Nhật như Huệ Quán, Trí Tạng và Ðạo Từ đều lần lượt
qua Trung Quốc tu học Tam luận, thế kỷ 13 Nhật Liên dựa theo kinh Diệu
Pháp Liên Hoa do ngài La Thập dịch thành lập Nhật Liên tông ở Nhật, năm
1982 tông này đã cúng dường tượng ngài La Thập để thờ ở chùa Thảo Ðường.
Chùa qua bao lần hưng phế, Ðường gọi là Thê Thiền tự, Tống trùng tu đổi
tên thành Thanh Lương Kiến Phúc viện, Thanh đổi là Thánh Ân tự, cho tới
nay người ta vẫn quen gọi Thảo Ðường. Theo Lịch Ðại Tam Bảo Ký thì Thảo
Ðường là tên của điện đường dùng dịch kinh thuộc chùa Ðại tự, cuối Ngụy
đầu Chu Ðại tự chia thành bốn chùa, trong đó Thảo Ðường được lập thành
chùa. Hiện diện tích còn khoảng 40 mẫu bao gồm các kiến trúc Sơn môn,
Chung lầu, Tháp đình, Bi lang, Bi lầu, Ðại điện và Tăng liêu. Năm Nghĩa
Hy thứ 9 đời Tấn (413) xây La Thập Xá Lợi tháp cao hơn 20m hình bát giác
12 từng, dùng các ngọc thạch đủ mầu điêu khắc và xây cất, nên còn gọi
là Bát Bảo Ngọc Thạch tháp, hiện cách chùa khoảng một dặm, trải qua cả
ngàn năm vẫn còn nguyên vẹn không hề hư tổn, trong chùa còn lưu các bài
thơ vịnh chùa của các thi nhân nổi tiếng như Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích,
Bùi Hưu, Gỉa Ðảo, Ôn Ðình Quân, Sầm Tham...và cả "Ðịnh Huệ Thiền Sư
Truyền Pháp Bi" lập vào đời Ðường năm Ðại Trung thứ 9 (855) do thư pháp
gia Bùi Hưu viết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét