Kiến trúc Phật giáo tại Trung Quốc
a. Lịch sử phát triển Phật giáo:
Trung
Quốc là nơi Phật giáo phát triển mạnh ảnh hưởng trên một khu vực rộng
lớn trong đó có Việt Nam. Phật giáo truyền vào Trung Quốc từ thời Ðông
Hán khoảng đầu Công nguyên khi Nho giáo và Lão giáo đã thấm nhuần trên
đất nước này. Trải bao nhiêu thăng trầm, đến đời vua Minh Ðế thì đạo
Phật mới trở nên vững mạnh.
Từ Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều đến Tuỳ Ðường
là thời đại hoàng kim của Phật giáo Trung Quốc. Vào thế kỷ VI, nước Tuỳ
tại phía Bắc Trung Quốc đã có tới 36.000 tự viện, nghệ thuật Phật giáo
lúc này đã mang một tính chất Trung Quốc rõ rệt. Thời nhà Tống và đời
Minh rồi đến nhà Thanh, Phật giáo suy vi, không còn cao tăng, giáo dục
trong tăng đồ không được coi trọng...
Vào đầu thế kỷ XX, Phật giáo
phải chịu trải qua một thời kỳ cải cách để có thể thích hợp với trào lưu
mới của xã hội, tuy nhiên, đến năm 1940 - 1945, Phật giáo lại tiếp tục
bị tàn phá trầm trọng qua cuộc chiến Trung - Nhật. Năm 1966 - 1976 với
cuộc đại cách mạng văn hoá, Phật giáo tồn tại không mang tính đạo mà chỉ
là hình thức. Cuối năm 1976 đến nay, Phật giáo đã có những bước chuyển
mình theo chiều hướng tích cực đáng kể nhưng phần lớn lại mang màu sắc
tuyên truyền cho chính trị.
b. Kiến trúc các công trình Phật giáo:
-
Trung Quốc là đất nước có chiều dày lịch sử và nền văn minh cổ đại. Ðến
khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc thì kiến trúc Phật giáo mới song
hành cùng các dạng công trình kiến trúc khác. Tuy nhiên các công trình
tiêu biểu cho kiến trúc Phật giáo thì chỉ tồn tại ở những thời kỳ Phật
giáo phát triển, còn từ thời Tống về sau thường không được coi trọng mà
chỉ có những công trình được trùng tu lại là chủ yếu.
+ Thời Nguỵ,
Tấn, Nam Bắc triều đến Tuỳ Ðường (221 - 907) : kiến trúc chùa bao giờ
cũng có hành lang bao quanh, có sân vườn, ngói lợp đã xuất hiện dạng lưu
ly màu lục. Tháp dựng từ kết cấu gỗ và gạch. Nghệ thuật ảnh hưởng của
ấn Ðộ và Trung á nhưng mang sắc thái riêng do kiến trúc gỗ. Tiêu biểu
cho kiến trúc thời kỳ này là chùa Phật Quang tại núi Ngũ Ðài Sơn. Các
ngôi chùa trước thời Tuỳ thường có Tháp thờ Phật cùng nằm trên một trục
chính giữa cổng vào và chính điện. Thời nhà Tuỳ và Ðường, hai ngôi tháp
được xây dựng ở hai bên chính điện, vị thế của tháp giảm bớt và tầm quan
trọng của chính điện được tăng lên. Các công trình Trung Hoa thời Hán
mái vẫn thẳng, cho đến cuối đời Ðường, lối làm nhà mái cong mới thâm
nhập từ Nam lên Bắc. Quy mô kiến trúc trong thời gian này rất hùng vĩ,
kỹ thuật kết cấu gỗ và gạch đá đã đạt được nhiều thành tựu và bắt đầu
gây ảnh hưởng về kiến trúc với các nước khác như Triều Tiên rồi sau đó
là Nhật Bản.
+ Thời Ngũ Ðại, Liêu, Tống Kim, Nguyên (970 - 1368):
Kiến trúc thường bố cục chạy dài theo hướng Bắc - Nam. Sân thường có
hình chữ nhật, gác chuông và trống hai bên, các điện thờ được bố trí
trên trục chính giữa, tạo nên quần thể kiến trúc chính phụ rõ ràng với
trung tâm là lầu cao. Ví dụ điện Ðại Bi trong chùa Long Hưng cao 3 tầng
là kiến trúc trung tâm của chùa. Hệ thống kết cấu gỗ của Trung Quốc trở
nên rất phức tạp với tập hợp các "đấu củng" dựa trên đầu cột mang chức
năng trang trí. Từ đời Tống trở đi, hệ thống đấu củng này phát triển
được đưa ra mặt đứng chính đỡ mái đua ra xa so với chân cột để ngăn chặn
ánh nắng chói chang cùng những trận mưa lớn.
+ Kiến trúc thời Minh,
Thanh (1368 - 1840): Kiến trúc các ngôi chùa hiện nay chủ yếu thuộc về
đời Minh, Thanh với sự phát triển dựa trên các thành tựu của đời Ðường,
Tống. Kiến trúc gỗ phát triển mỗi nơi mỗi vẻ, ví dụ Phương Nam sử dụng
tường mỏng, mái nhẹ, sử dụng vật liệu gỗ linh hoạt trong khi kiến trúc
Phương Bắc với khí hậu lạnh, gió rét nên tường xây dày hơn khiến kiến
trúc trông nặng nề hơn.
- Trung Quốc là đất nước có nhiều dân tộc,
nhiều vùng khí hậu, vật liệu địa phương nhiều chủng loại, tất cả dẫn đến
một nền kiến trúc Trung Quốc với nhiều sắc thái phong phú khác nhau.
Tuy vậy, nền kiến trúc Trung Hoa có thể nhận biết dễ dàng qua một số đặc
trưng sau:
+ Chùa Trung Quốc có thể chịu ảnh hưởng trực tiếp từ kiến
trúc ấn Ðộ hoặc bị chuyển hoá từ hình thức kiểu Kim tự tháp, nhà nhiều
tầng của Tây á. Các ngôi chùa theo từng thời đại khác nhau đều có lối
kiến trúc khác nhau và được phân biệt với các dạng công trình khác ở mặt
bố cục.
+ Cảnh quan sân vườn được bố trí có nghệ thuật, trang
nghiêm, hùng vĩ, bố cục luôn tuân theo nguyên tắc lấy thiên nhiên làm cơ
sở của sáng tạo. Các vùng ở Trung Quốc được coi là thánh địa của Phật
giáo gồm Cửu Hoa Sơn ở An huy, Ngũ Ðài Sơn ở Sơn tây, Nga Mi Sơn ở Tứ
Xuyên đều là những danh lam thắng cảnh.
+ Vật liệu truyền thống trong
các công trình kiến trúc Phật giáo thường sử dụng gỗ, đá, gạch. Về sau
các vật liệu được sử dụng phỏng theo vật liệu gỗ. Các ngôi chùa được
dựng trên nền đá hoặc nền gạch. Với kết cấu gỗ liên kết mộng là chủ yếu,
tường không chịu lực và cách sắp xếp hợp lý các cấu kiện làm cho hệ
khung của các công trình mang tính chất ổn định.
+ Các ngôi chùa
Trung Quốc thường được trang hoàng chạm trổ, màu sắc rực rỡ do sơn vẽ,
các diềm mái mềm mại với các chi tiết trang trí đặc sắc tiếp tục tồn tại
cho đến ngày nay. Kỹ thuật làm mái của Trung Quốc và Nhật Bản đều theo
kiểu "chồng đấu tiếp rui" hay gọi là dầm chìa, do đó diềm mái trông
thanh nhẹ hơn và làm giảm thiểu sức nặng của mái nhà. Kỹ thuật xây dựng
của Trung Quốc và hệ thống kết cấu khiến cho mái các công trình truyền
thống có độ cong võng chứ không thẳng như ở nước ta.
+ Tháp ở Trung
Hoa có hình dạng phong phú nhưng rất khác so với tháp ấn Ðộ. Bình đồ
tháp có hình vuông, bát giác, lục lăng, bát diện, thập nhị diện đến
tròn. Xét tổng thể thì các loại tháp phương Bắc thường cao lớn kỳ vĩ,
tháp phương Nam kết hợp hai loại vật liệu gỗ và đá tạo nên các mái uốn
cong. Kiến trúc tháp với các tầng thu nhỏ dần lên trên biểu hiện cho sự
thanh tịnh và nhịp nhàng, phát triển thành nhiều tầng với các hốc tường
các mặt để đặt tượng...
TLTK:
Thích Thánh Nghiêm. Phật giáo chính tín. Trung tâm tư liệu Phật học 1994.
Ngô Huy Quỳnh. Kiến trúc cổ đại Châu á. NXB VH-TT 1999.
Phạm Ðình Hải. Phật tháp và lịch sử kiến trúc Phật tháp Trung Quốc. T/c KTVN 2/1998.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét