Chương I:
A.Dẫn nhập.
Nhớ lại lời dạy năm xưa của đức Thế
Tôn khi Ngài dùng hình ảnh dụ nắm lá trong tay để xác nhận với chư Thánh đệ tử
rằng, những gì Ngài đem ra giảng dạy thì ít như nắm lá trong tay và những gì mà
Ngài biết rõ thì nhiều như lá trong từng khu rừng. Vì chính những điều này, như
Đức Thế Tôn đã huấn thị: “Những gì mà Ngài không đem ra giảng dạy là những gì
không phải căn bản cho phạm hạnh, không đưa đến ly tham, giải thoát, Giác ngộ,
Niết bàn”. (sđd.,tr.442). Cũng tương tự như vậy, những gì
hiểu biết và đem ra giảng dạy của chư vị giáo thọ sư thì như lá trong khu rừng
nhưng những gì lãnh hội được của Tăng ni có lẽ chỉ như lá trong một bàn
tay bàn. Cho nên, đối với đề tài “Ứng dụng của giới vào cuộc sống của người xuất
gia và xã hội vào trong hệ thống giáo dục Phật giáo” là một đề tài tầm cỡ về mặt
nghiên cứu cũng như tu tập. Vì chúng ta biết rằng, những gì mà đức Thế Tôn đã
giảng thuyết trong suốt 45 năm hoằng pháp lợi sinh của Ngài không ngoài, Giới-Định-Tuệ,
và con đường tu tập ngang qua Giới-Định-Tuệ. Như chúng ta đều biết, trong những
ngày cuối cùng trước khi nhập Niết Bàn, trên đường từ Magadha đến Kusinara đức
Thế Tôn đã dừng chân ở nhiều nơi trên đường và hầu hết Ngài khuyên tu Giới-Định-Tuệ.
Ngài đã nhắc đi nhắc lại rằng: “Này các Tỷ kheo, đây là Giới, đây là Định, đây
là Tuệ, Định tu cùng với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ tu
cùng với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm tu cùng với Tuệ sẽ đưa đến
giải thoát hoàn toàn các lậu hoặc.” Nhưng với khả năng hiểu biết còn hạn
chế, với phạm vi cho phép của một luận văn niên luận, con không thể đi sâu vào
nghiên cứu chi tiết được rừng giáo lý Giới, Định, Tuệ. Cũng như không thể đi
sâu vào khảo cứu thấu đáo hệ thống giáo dục toàn diện này được mà chỉ nghiên cứu
về giới trong đời sống của người xuất gia và xã hội. Bên cạnh đó, con cũng
không dám có tham vọng đưa ra được một quan điểm mới nào, mà chỉ cố gắng bám
sát đề tài, trình bày những khái niệm chung nhất, cập nhật nhất trong việc giáo
dục con người trong xã hội hiện đại. Con nhận thấy rằng, trong mọi thời đại các
hệ thống giáo dục tùy theo giai đoạn lịch sử, tùy theo hoàn cảnh xã hội, tùy
theo thể chế chính trị…thì phương pháp giáo dục và nội dung giáo dục tuy có
khác nhau. Nhưng nhìn chung, con người vẫn truyền trao cho nhau những kinh nghiệm
về lao động, học tập, việc đối nhân xử thế…Ngày nay, ở các cấp tiểu học, trung
học và nhất là các bậc cao đẳng và đại học phần lớn chỉ đào tạo con người có một
vài ngành nghề nhất định nào đó để đáp ứng công việc làm ăn, sinh sống mà quên
đi việc dạy con người làm người, dạy con người nhân cách và đạo đức. nhất là phải
dạy con người biết cách để đối mặt với một sự thật đó là già-bệnh-chết. Hay có
chăng chỉ là dạy một cách phớt lờ, qua loa đại khái.
Chúng ta thấy rằng, trong xã hội hiện đại khi mà con người đem vật chất
ra để làm thước đo quyết định cho tất cả. Rồi lấy đó làm một hệ thống lý luận để
giáo dục, thì rõ ràng đạo đức của con người giữa xã hội đang đứng trước một
giai đoạn khủng hoảng và nguy cơ sẽ khủng hoảng nghiêm trọng. Con người phải lo
lắng và đau khổ nhiều hơn trước những căn bệnh hiểm nghèo, trước mắt môi trường
sống bị đe dọa, trước những nỗi thống khổ của đói, nghèo, thiên tai, động đất…Như
thế, có lẽ đã do nhận thức sai lầm ở chỗ nào đây trong việc giáo dục đào tạo
con người để rồi nỗi khổ đau triền miên này cứ dai dẳng mãi mà không thể nào giải
quyết được.
Mặt khác, chúng ta nhận thấy rằng, hiện nay loài người đang đứng trên một
đỉnh cao của sự thành tựu về khoa học. Cái giai đoạn mà người ta thường đem
khoa học ra để làm thước đo chân lý cho sự sống. Nhưng dẫu sao con người vẫn
đang chìm ngập trong sự thống khổ, lo lắng và mất cân bằng. Những căn bệnh hiểm
nghèo vẫn hoành hành khắp đó đây. Và nếu đem sự phát triển của khoa học này nhằm
mở lối cho cuộc sống, thì có thể, và chỉ có thể giải quyết được cái khổ của
nghèo đói, cái khổ của nóng lạnh và thậm chí cho đến cái khổ của mù chữ. Nhưng
không làm sao tránh được cái khổ của già, của bệnh và của chết.
Từ những vấn đề quan yếu này, tác giả nhận thấy rằng cần phải có một đường
hướng giáo dục cấp thiết được đặt ra, giúp con người nhận thấy ngay giá trị
đích thực của sự sống, để con người hết lo âu, hết sợ hãi, hết tham vọng và hết
khổ đau. Mà giá trị ấy là gì? Là chân nguyên, là “bản lai diện mục”, là con đường
đi ra khỏi sự thống khổ trầm luân. Mà con đường ấy chính là tư do “ngã”, là con
đường tu tập ngang qua Giới-Định-Tuệ. Một con đường, một hệ thống giáo lý mà Đức
Thế tôn đã tuyên thuyết cách đây hơn 2500 năm. Mặt khác, nhằm trau dồi thêm kiến
thức trên lộ trình học đạo, tư duy và tu tập của chính bản thân mình.
Hà
Nội, Ngày 26 Tháng 6 Năm 2008
Tăng
Sinh. Thích Thanh Việt.
B. Giáo Dục Và Vấn Đề Giáo Dục Trong Tăng Đoàn Và Xã Hội.
- Khái Niệm
Về Giáo Dục:
Giáo dục đã
có từ rất lâu đời, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm nào chung nhất
cho hai chữ giáo dục. Ví như chúng ta đều biết, giáo dục là một hiện tượng tự
nhiên của xã hội, là một hiện tượng xã hội đặc biệt của con người…mà người ta
có những cách hiểu, cách nhìn nhận, cách khái niệm khác nhau về giáo dục.Tuy
nhiên Sự chung nhất nào đó thì ta có thể thấy được người ta có những quan niệm
về giáo dục- Quan niệm phương Tây thì, ngôn ngữ “Éducation”(giáo dục) bắt nguồn
từ tiếng La-tinh cổ là: “Educere” hay “Educare”(E : ra khỏi, thoát khỏi, Ducere:
dẫn dắt, hướng dẫn). Giáo dục là hướng dẫn, là dẫn dắt con người từ tình trạng
này đến tình trạng khác tốt đẹp hơn. Quan niệm phương Đông thì:(Giáo : dạy -Dục
: nói)
Theo đó thì,
giáo dục gồm những tác động nhằm biến đổi cả tinh thần và thể chất của con người
sao cho ngày một hồn thiện hơn, tốt đẹp hơn.Theo hai định nghĩa trên, con người
được quan niệm như một tồng thể bất khả . Giáo dục là phương tiện phục vụ cho cứu
kính, tức là cho con người được phát triển toàn diện. Và cái nôi văn hóa, văn
minh của nhân loại phải là xuất phát từ giáo dục. Và chính tại đây, giáo dục
cũng được phát triển để cho phù hợp về cả nội dung lẫn hình thức. Giáo sư
W.O.Lester Smith chủ tịch Hội nghiên cứu giáo dục Anh quốc đại học Luân Đôn đã
nói: “ Khi nghĩ về giáo dục ta không được quên rằng giáo dục có tính cách phát
triển của một cơ thể. Nó thường xuyên tùy thuộc và liên tục thay đổi để tự
thích ứng với những nhu cầu mới và hoàn cảnh mới. Nếu cứ khư khư muốn đơn giản
hóa ý nghĩa của giáo dục vào một định nghĩa theo chủ quan có tính giáo điều thì
ắt hẳn không phải thái độ đúng đắn của nhà giáo dục. Giáo dục do đó không phải
chỉ thay đổi theo thời gian mà còn thay đổi theo hoàn cảnh. Nó mang ý nghĩa và
quan niệm khác nhau theo mỗi hoàn cảnh và ngay cả trong cùng một quốc gia nó
cũng đòi hỏi một ý nghĩa một quan niệm khác nhau cho vùng nông thôn và đô thị .”(
Sđd tr.22-23).
-Tư Tưởng
Giáo Dục Trong phật Giáo:
Giáo dục Phật
giáo là một phương tiện tối yếu để khai mở cánh cửa trí tuệ của con người, giúp
con người bíêt được thật tướng đích thực của vạn pháp, nhằm đưa họ đi vào chân-
thiện- mỹ. Trên cơ sở đó, trong lộ trình tu tập, con người “phản quang tự kỷ” để
phát triển tiềm năng sáng suốt, đánh thức Phật tính vốn có ở trong mình và đi
vào con đường Giác ngộ, giải thoát. Yếu tố cốt lõi trong hệ thống giáo dục Phật
giáo là hướng dẫn hành giả đoạn ác, tu thiện, chứng quả vô sinh. Và có thể bao
hàm trong ý nghĩa bài kệ sau:
Chư
ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.( Pháp cú, kệ 183 )
Nếu như tất cả
nước biển chỉ có một vị là - vị mặn, thì giáo lý mà đức Thế Tôn thuyết ra cũng
thế, chỉ có một vị là hương vị - Giải thoát. Trong kinh Tăng Chi đức Phật có dạy:
“Này Paharada, biển lớn chỉ có một vị, đó là vị mặn. Cũng vậy, này Paharada,
pháp này của Ta cũng chỉ có một vị là vị giải thoát.”(Tăng chi III, tr 57.Sđd).
Điều này nói lên rằng, tư tưởng cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tam tạng giáo điển
luôn mang tính nhất quán, như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt từ đầu đến cuối. Tính
nhất quán ấy chính là Từ bi và Trí tuệ. Chúng được xây dựng trên nền tảng của
ba môn tam Vô lậu học Giới- Định- Tuệ. Trên cơ sở này hành giả tu tập nhằm chuyển
hóa từ con người mê lầm thành đức Phật giác ngộ và giải thoát, chuyển hóa tàng
thức thành Như lai tạng. Nghĩa là phá trừ ngã chấp và pháp chấp, không còn mê
chấp giữa thế giới chủ quan và khách quan. Thấy được thực tính của vạn pháp là
vô tính, là bình đẳng, là viên dung vô ngại.
Chúng ta thấy
rằng, trong suốt 45 năm thuyết giáo của đức Phật, Ngài đã tùy theo những trình
độ, những căn cơ, những thời điểm khác nhau mà giảng bày ra nhiều phương tiện để
dẫn dắt con người đi vào đạo giải thoát. Giáo lý mà ngài đã thuyết giảng với
nhiều đề mục phong phú và ý nghĩa thì rất thậm thâm, vi diệu. Các nhà nghiên cứu
Phật học sau này đã căn cứ vào đó để phân chia ra theo thời giáo.
Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhật.
A Hàm thập nhị, Phương Đẳng bát,
Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm,
Pháp Hoa, Niết Bàn cộng bát niên.
Thế thì, quan
niệm trở về với bản thể nhất nguyên là quan niệm bao trùm mọi tư tưởng, mọi
phương pháp trong tổng thể giáo lý Phật đà. Mặc dù, trong đó thời A Hàm là thời
dạy về thế giới Hữu cho hàng Tiểu thừa; thời Bát Nhã là thời thuyết về thế giới
Không cho hàng Đại thừa; thời Duy Ma, Thắng mạn, Pháp Hoa là thời trung đạo
thuyết về phi hữu phi không của Thế tôn nhất thừa. Đặc biệt trong đó thời Hoa
Nghiêm đức Phật đã thuyết trong thiền định 21 ngày đầu tiên sau khi thành đạo.
Và thời pháp này, đức Thế tôn tuyên thuyết nhằm vào các cõi trời và các vị Bồ
tát từ sơ địa trở lên mới nghe và am hiểu được. Như vậy, đây là phương pháp, là
chủ trương giáo dục bằng “phương tiện thiện xảo” trong Phật giáo, là sự khéo
léo của khả năng thuyết giáo, hướng dẫn thích hợp tùy theo căn tính mỗi chúng
sinh để đưa đến địa vị Phật thừa. Thế nên, trong chừng mực nào đó thì ta thấy
còn có phân biệt cao thấp, còn chia ra các thừa…Nhưng nhìn trên tổng thể thì chỉ
có duy nhất một thừa, ấy là Phật thừa. “Ba thừa cũng chỉ là một thừa. Ba thừa
là phương tiện, một thừa mới là cứu cánh. Chứng đắc nhất thừa là chứng đắc vô
thượng giác ngộ. Vô thượng giác ngộ chính là Niết bàn giới. Và Niết bàn giới
chính là pháp thân của Như lai.” Và con đường để đi đến Nhất thừa đạo quả
là lấy Bồ đề tâm làm khởi điểm, làm chính nhân “Hạt giống của Bồ đề tâm đã được
gieo xuống và được tài bồi bằng những chất liệu của đại bi, bằng quy, giới,
nguyện và hành, để sẽ đâm hoa kết trái của trí huệ Nhất thừa. Bồ đề tâm là khởi
điểm và Nhất thừa là cứu cánh, hay nói cách khác, Bồ đề tâm là chính nhân và Nhất
thừa là chánh quả trong quá trình Bồ tát đạo.”
Và Bồ đề tâm
này được xây dựng trên cơ sở của niềm tin. Vì rằng, biển Phật pháp thì mênh mông
vô lượng và chỉ có thể thâm nhập bằng tín. Như ý nghĩa trong kinh Hoa Nghiêm mà
đức Phật đã dạy: “Tín là căn nguyên của đạo, là mẹ của công đức, nuôi lớn hết
thảy thiện pháp, đoạn trừ lưới nghi, đưa vượt qua những nước ái dục, khai thị
con đường tối thượng dẫn đến Niết bàn.” Nguyên văn là:
“Tín vi đạo nguyên công đức mẫu
Trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn
thất ly thát ly sinh tử xuất mê lưu
Trực vãng Niết bàn vô thượng đạo.”
Mặt khác, đạo
Phật lấy con người làm trung tâm giáo dục, nhằm mục đích chuyển hoá con người từ
mê lầm đến giác ngộ. Đạo Phật không xa lìa cuộc đời, không tách khỏi cuộc đời,
đạo và đời là nhất thể, đạo vốn là đời được giác ngộ giải thoát khỏi các phiền
não các lậu hoặc, đem đến an lạc, hạnh phúc thật sự cho con người trong kiếp sống
hiện tại và tương lai. Như vậy, tư tưởng giáo dục Nhất thừa của Phật giáo là
không loại trừ một đối tượng nào ra ngồi khả năng giáo dục và không coi đối tượng
nào là không có khả năng đạt hiệu quả giáo dục. Chúng là hệ quả tất yếu, là một
tầm nhìn rất trí tuệ và bình đẳng đối với hết thảy chúng sinh. Và tất cả đều xuất
phát từ lời dạy của đức Thế Tôn: “ Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tính”. Vậy
nên, một khi vô minh phiền não được đoạn trừ thì Phật tính hiển bày và thành Phật,
thành Phật ngay giữa cõi Ta bà ngũ trược này. Từ kẻ nhất xiển đề cho đến người
nữ, ác nhân chính cơ đều thành Phật tất cả. “Mục tiêu Nhất thừa không đơn giản
chỉ là mục tiêu hướng thượng của Bồ tát, nghĩa là của một hạng chúng sinh ưu việt,
mà cần phải được xác định nó là mục tiêu cứu cánh của bất cứ ai trong những nỗ
lực kiên trì thể hiện trọn vẹn tất cả ý nghĩa sinh tồn của mình trong cuộc đời
này.”
Con đường
giáo dục Phật giáo mà đức Thế tôn đã phương tiện thuyết ra thì có vô lượng những
thành tựu nhưng lại cũng không ngoài ba lĩnh vực Giới học, Định học và Tuệ học.
Và con đường tu tập để đưa đến Giác ngộ, Giải thoát. lẽ tất nhiên cũng không ngồi
ba lĩnh vực ấy. Vị hành giả muốn đạt được mục đích, nghĩa là muốn đạt được quả
vị thù thắng, muốn an lạc và hạnh phúc thật sự ngay giữa cuộc đời này thì phải
nỗ lực tu tập, thực hành ngay bằng chính con đường ấy. Vì khi ta nói đến mục
đích của giáo dục thì như Herbert Spencer đã nói: “ Mục đích của giáo dục không
phải là để biết mà để hành động”. Chúng ta biết rằng giáo pháp là do đức Thế tôn
đã phương tiện mà thuyết ra thì chính giáo pháp ấy cũng là phương tiện. Như
Ngài đã từng dạy: “Nhất thiết Tu-đa-la giáo như tiêu nguyệt chỉ”. Thế thì, điều
quan trọng là ta phải hành động, nghĩa là ta phải vận dụng tu tập giáo pháp ấy
như thế nào để có thể mang lại quả vị thù thắng.
CHƯƠNG II:
Nội Dung Của Giới.
Giới là từ
Hán dịch từ chữ Sìla, thường được hiểu là giới hạnh, điều luật, đạo đức. Dùng để:
“ Phòng ngừa, ngăn cấm sự sai trái của thân và tâm” . Cho nên, khi nói về giới
chúng ta hiểu ngay rằng: “Chớ làm các điều ác” “Hãy làm các hạnh lành” như bài
kệ khuyên không nên làm các điều ác, nên làm các điều lành của đức Phật. Tuy
nhiên, Sìla nguyên nghĩa là sự tự nhiên, là thói quen. Có điều là khi chúng ta
vượt ra khỏi những quy luật của tự nhiên, vượt ra khỏi sự vận hành tất yếu của
môi trường, của xã hội thì chúng ta sẽ bị trở ngại. Như thế, để khỏi bị trở ngại
thì những điều nên làm và không nên làm được đặt ra, và ý nghĩa thù thắng về mặt
đạo đức của giới luật cũng được xuất hiện.
Theo Thanh Tịnh
đạo thì: “ Giới có nghĩa là chế ngự theo năm cách như sau: Chế ngự với sự chế
ngự của giới bổn Pàtimokkha; chế ngự bằng tỉnh giác; chế ngự bằng tri kiến; chế
ngự bằng kham nhẫn; chế ngự bằng tinh tấn. Giới có nghĩa là kết hợp, vì nó kết
hợp ba nghiệp thân, khẩu, ý hướng đến con đường thánh thiện. Giới có nghĩa là nền
tảng, vì nó làm cơ sở cho các thiện pháp phát sinh. Giới còn có nghĩa là thanh
lương, vì nó làm cho người giữ giới cảm thấy thân tâm mát mẻ” .
Khi ta học về
giới là học về luật tắc trong sinh hoạt cộng đồng nói chung và trong tu sĩ Phật
giáo nói riêng. Về những điều thiện phải làm và những điều ác phải tránh. Về giữ
gìn thân, khẩu, ý để khỏi tạo nghiệp xấu nhằm không trở ngại đến bước đường tu
tập của một Tỳ kheo. Như thế, giới còn được hiểu là giới học, là học tập, là tu
hành theo giới bổn Tỳ kheo, là bộ Giới Kinh gồm những giới luật do đức Phật chế.
Hiện nay, theo các nhà nghiên cứu thì chúng ta có được sáu bộ luật của sáu tông
phái khác nhau. Đó là các bộ:
Theravada Vinàya.
Mahàsanghika Vinàya.
Mula-Sarvastivàda.
Mahàsasàka-Sarvastivàda.
Pharmaguptaka-Sarvastivàda.
Sarvastivàda.
Trong sáu bộ
luật trên, bộ Theravada Vinàya của Thượng tọa bộ là đầy đủ và hệ thống nhất. Bộ
Theravada Vinàya này có tên Pàli là Vinàya Pitaka mà ngày nay người ta vẫn gọi
là Luật tạng. Và chúng được phân biệt thành ba phần trong nội dung là:
Pàtimokkha (
Ba-la-đề-mộc-xoa) tức bộ giới bổn Tỳ kheo.
Mahavagga (Đại
phẩm): ghi lại những quy định trong sinh hoạt của Tăng già như thọ giới, nhập hạ,
ăn mặc, thuốc men, các quyền của Tỷ kheo…ullavagga ( Tiểu phẩm): ghi lại những
quy định về cách cư xử, đối đãi giữa các Tỷ kheo Tăng, Ni…
Như chúng ta
đều biết sự hình thành các bộ luật tương đối khá chậm đến gần cả chục thế kỷ
sau thời đức Phật. Vào lúc khởi đầu, Tăng già là một giáo đồn Sa môn hòa hợp,
các Tỷ kheo đều rất thanh tịnh và ai cũng đạt Thánh quả, nên giới luật là không
cần thiết để đặt ra. Cho đến khi Tăng già đã lớn mạnh, thì sự xen tạp đã bắt đầu
xảy ra, tất nhiên trong đó gồm luôn những điều sai trái. Do đó, đức Phật phải đặt
ra những điều lệ lẻ tẻ “nên làm…” và “không nên làm…” để giáo dục đệ tử. Và phần
duyên khởi đưa đến lời dạy của đức Phật theo từng trường hợp riêng lẻ lại không
được sắp xếp một cách hệ thống. Riêng chỉ có bộ Pàtimokkha là tương đối hoàn chỉnh
và hệ thống nhất, lại còn quy định những điều vi phạm. Tuy nhiên, theo các nhà
nghiên cứu Phật học thì những tài liệu về nội dung của bản Pàtimokkha vào thời
kỳ đầu của Tăng già vẫn chưa được tìm thấy. Và các nội dung liên quan tới việc
khảo cứu chủ yếu dựa vào các sớ luận của luận sư Buddaghosa (Phật Âm), được viết
vào khoảng cả ngàn năm sau khi các sự việc xảy ra. Mặc dù bộ Pàtimokkha rải rác
trong các kinh được chính đức Phật đã từng nhắc nhở rằng, đây là nội dung tu
trì căn bản nhất để từ đó các Tỷ kheo thăng tiến lên trên con đường giải thoát
tối hậu.
Khi tu trì,
giữ giới, chế ngự theo giới bổn Pàtimokkha thì sẽ làm cho Tăng già được ổn định
vá hòa hợp. Vì chính Pàtimokkha là giới bổn dẫn dắt các Tỳ kheo tiếp cận được với
giáo lý của Phật Đà, thúc liểm thân tâm, ngăn ngừa tam độc, đưa giáo đoàn vào một
thể hòa hợp thanh tịnh nhằm tiến thẳng vào con đường Giải thoát, Giác ngộ. “ Pàtimokkha
gồm tiếp đầu ngữ là Pàti, có nghĩa là hướng về, theo chiều hướng và Mokkha có
nghĩa là Giải thoát. Theo đó, Pàtimokkha có nghĩa là sự đưa đến giải thoát.Từ
Hán dịch Pàtimokkha là Giải thoát, Biệt giải thoát, Biệt biệt giải thoát, Tùy
thuận giải thoát…đều là lấy gốc ở từ Mokkha và diển thêm nghĩa theo ý nghĩa của
toàn bộ nội dung của Pàtimokkha. Ta có thể hiểu Pàtimokka là những hành vi, những
học pháp đưa đến sự giải thoát”.
Cùng với ý
nghĩa trên, đức Phật cũng đã nêu ra mười lý do thiết lập giới luật để các Tỷ
kheo đệ tử tu tập. Mười lý do này còn được nhắc lại trong Tăng Chi Bộ kinh khi
đức Phật trả lời trưởng lão Upàli (Ưu-bà-ly) về mục đích tuyên dạy Pàtimokkha của
đức Phật. “ Này Upàli, đây là mười lý do khiến ta tuyên dạy Pàtimokkha. Mười lý
do này là gì?
Để Tăng-già được mỹ mãn.
Để Tăng-già được ổn thuận.
Để kiềm giữ các Tỷ kheo khĩ kiềm
giữ.
Để thiện Tỷ kheo được ổn thuận.
Để chế ngự các lậu hoặc (Àsava)
trong hiện tại.
Để ngăn ngừa các lậu hoặc đời
sau.
Để tạo tin tưởng cho những người
ít tin tưởng.
Để xác tín cho những người có lòng
tin.
Để chính pháp được vững bền.
Để phù trợ cho luật.
Này Upàli, đấy
là mười lý do nhằm dạy dỗ các đệ tử của Như Lai và là mục đích tuyên dạy
Pàtimokkha”.
Như vậy, việc
thiết lập giới luật của đức Phật không ngoài mục đích lợi ích hữu tình, dẫn dắt
chúng sinh vào nẻo đường Giải thoát. Điều này càng được rõ ràng hơn khi trong ý
nghĩa của Pàtimokkha là Biệt giải thoát hay Xứ xứ giải thoát, Tùy thuận giải thóat.
Biệt giải thoát hay Xứ xứ giải thoát là giải thoát từng phần; giữ giới nhiều
thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải thoát ít. Tùy thuận giải thoát là giải
thoát tùy thuộc vào quả hữu vi hay vô vi của người hành. “Giải thoát tiếng Phạn
là Moksa, Mutti dịch là giải thoát, có nghĩa là lìa bỏ mọi trói buộc mà được tự
tại. Cởi bỏ sự trói buộc của hoặc nghiệp, thoát ra khỏi khổ quả của tam giới”. Ngồi
ra, còn một mục đích quan trọng hơn mà Thế tôn thiết lập giới luật là để cho Chính
pháp thường trụ mãi giữa thế gian.
Đến đây ta thấy
rõ rằng ý nghĩa thù thắng của giới luật là dẫn dắt chúng sinh ra khỏi sự ràng
buộc khổ đau trong Tam giới và không mang một sự trói buộc, cố chấp, cứng nhắc
nào như là giới điều mà hoàn toàn mang ý nghĩa tự nguyện. Kết quả của việc giữ
giới là mang lại an vui hạnh phúc cho mình và cho người, tạo nên niềm tin cho kẻ
khác, làm cho cuộc sống cộng đồng được hài hòa và an ổn. Và vì vậy nó đúng với
tinh thần Từ bi và Trí tuệ trong toàn bộ hệ thống giáo lý mà đức Thế tôn đã
tuyên thuyết. Bởi lẽ, khi tự thân người giữ giới được lợi ích an lạc và giải thoát
đó là trí tuệ và mang đến cho kẻ khác niềm tin yêu hạnh phúc đó là từ bi. Chính
điều này là nền tảng cơ bản để mang lại lợi ích thiết thực cho cuộc sống. Và đó
cũng chính là tinh thần Tự giác, Giác tha và Giác hạnh viên mãn.
Hướng đi của
giới là ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại và tương lai. Và giới cũng là bước
đầu đi đến Thiền định nên cũng được gọi là “ly dục, ly bất thiện pháp”, mở đầu
cho điều kiện chứng đắc thiền thứ nhất. Chúng là biểu hiện của đời sống phạm hạnh.
Một Tỷ kheo an trú trong giới bổn Pàtimokkha là để ngăn ngừa các ác nghiệp, giữ
gìn thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Trung Bộ Kinh VI ghi lại lời đức Phật dạy
như sau: “Này các Tỷ kheo, hãy sống trong sự sở hữu giới hạnh, trong sự sở hữu
Pàtimokkha. Hãy sống chế ngự với sự chế ngự của Pàtimokkha, trong sự sở hữu oai
nghi chính hạnh, thấy được sự nguy hiểm của những lỗi nhỏ nhất, xử lý chúng một
cách đúng đắn. Hãy tu tập trong học giới”.
Giới sau này
được chia thành giới của bậc xuất gia, được cô đọng thành những pháp môn: “Sống
thành tựu giới uẩn thanh tịnh, hộ trì các căn, có tiết độ trong ăn uống, chú
tâm cảnh giác, chính niệm tỉnh giác”. Và giới cho các bậc tại gia được ghi chép
trong năm giới. Năm giới này được phân tích rộng thành mười hạnh.Và khi hành giả
khéo hộ trì các căn trong việc hành trì giới luật thì sẽ mang đến một đời sống
giới hạnh viên mãn. Đức Thế tôn đã dạy như sau: “ Này các Tỷ kheo, một Tỷ kheo
thiện xảo trong tu trì giới luật thì có bảy điều. Thế nào là bảy? Vị ấy biết thế
nào là phạm lỗi; vị ấy biết thế nào là lỗi nhỏ; vị ấy biết thế nào là lỗi nặng;
vị ấy đầy đức hạnh và sống mà được chế ngự bởi Pàtimokkha, toàn hảo trong chính
hạnh và oai nghi và tu tập trong học giới; Nếu muốn, vị ấy đắc Tứ thiền đưa đến
an lạc trong hiện tại một cách dễ dàng, chẳng chút khó khăn nào;và do dứt lậu
hoặc, vị ấy thể nhập tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu và vị ấy biết thể
nghiệm ngay trong đời này. Này các Tỷ kheo, một vị thiện xảo trong giới luật
thì có bảy điều như thế” . Vậy thì, một đời sống phạm hạnh đúng nghĩa thì theo
như đức Thế tôn đã dạy là phải chính niệm tỉnh giác. Nghĩa là vị hành giả phải
biết tàm quý, biết hổ thẹn và ăn năn trước những lỗi lầm mình đã tạo tác. Biết
bày tỏ sám hối những điều mình đã vi phạm trước đại chúng. Có như vậy tâm mới
được thanh tịnh và thuận tiện trên bước đường tiến tu đức hạnh đưa đến Định và
Tuệ. Ngay cả bậc xuất gia phát tâm thuần chính có lúc cũng khởi phiền não,
không thể tiết chế được mình mà phạm giới. Đây là chướng ngại lớn đối với việc
tu tập Phật pháp. Điều này cần phải được hạn chế bằng giới luật. Người đã phạm
giới thì buộc phải sám hối, để có thể trở lại thanh tịnh. Mặt khác, vị hành giả
phải biết sống như thế nào mà không để cho sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị
ngon, xúc êm dịu có thể chi phối tâm của mình. Thì đó là nền tảng cơ bản để cởi
bỏ mọi ràng buộc của uế trược mà thanh tịnh đi ra khỏi khổ đau. Làm được điều
này thì như một người có Trí viên mãn Định và Tuệ vậy. Trong kinh Tương Ưng I,
tr. 13 đức Phật dạy:
“Người trì giới có trí
Tu tập tâm và tuệ
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỷ kheo ấy thất triền”.
Đến đây, ta
thấy được rằng giới đóng một vai trị quan trọng và tối cần thiết trong hệ thống
giáo dục Phật giáo. Rải rác trong các kinh đều có đề cập nhiều đến vị trí và
vai trị của giới. Đặc biệt là Trường Bộ Kinh và Trường A Hàm. Điển hình là kinh
Phạm Võng (của Nikàya) và kinh Phạm Động của Trường A Hàm xác định rất rõ vị
trí của giới trong hệ thống giáo lý Phật Đà. Giới là bước khởi đầu của năm bước
đi: Giới, Định, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến. Như vậy, nền tảng của
bước khởi đầu là giới, nếu đi sai lầm hoặc rơi vào giới cấm thủ thì sẽ bị lạc
đường và không thể thực hiện bốn bước tiếp theo được.
Qua đến Bắc tạng
(Đại thừa) thì giới mang ý nghĩa rộng rãi và bao la hơn nhiều. Giới bao gồm cả
Định và Tuệ: trong Giới có Định, trong Định có Tuệ…Biệt giải thoát, giới ( hay
Nhiếp luật nghi giới) và Định cộng giới là thuộc Hữu lậu giới, Đạo cộng giới
thuộc về Tuệ giải thoát hay vô lậu giới.
Nhìn chung,
ta thấy có sự phân loại hơi khác nhau trong trình bày về giới học của Bắc
tạng và Nam
tạng. Nhưng khi suy xét thật kỹ thì rõ ràng không có sự mâu thuẫn thật sự nào cả.
Và con đường tối hậu chung nhất của chúng là dẫn dắt hành giả vào nẻo đường Giải
thoát, Giác ngộ. Đó mới chính là hạnh phúc thật sự và miên viễn chính trên nền
tảng thiết thực từ giới luật mang lại. Cho nên mọi con đường đi đến cứu cánh
không ra ngoài giới. Xác chứng điều này, trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Thế tôn
dạy : “Giới là nền tảng của bốn Niệm xứ, bốn Chính cần, bốn Như ý túc, Năm căn,
Năm lực, Bảy Bồ đề phần và Tám Thánh đạo phần. Ví như đất là nền tảng,
không có nó thì các loại động vật không thể di chuyển. Cũng thế, không có Giới
thì ba mươi bảy phẩm trợ đạo tu tập không thể viên mãn được.”
. Ý Nghĩa Thù
Thắng Của Giới Trong Tăng Đoàn:
Chủ trương của
hầu hết các hệ thống giáo dục đương thời là đào tạo con người trên ba phương diện:
trí dục, đức dục và thể dục nhằm tạo ra một mẫu người toàn diện theo cách nhìn
thông thường của thế gian. Và ở một mức độ nào đó ta thấy rằng nếu có một người
viên mãn cả ba phương diện này là đã kiện tồn một mẫu người để có thể đáp ứng
được nhu cầu cấp thiết cho sự sống. Tuy nhiên, vấn đề sinh, lão, bệnh, tử, phiền
não, khổ đau vẫn chưa giải quyết được và hãy còn đó. Một nền giáo dục mà chưa
giải quyết được nỗi khổ đau cho nhân loại, chưa mang lại hạnh phúc thiết thực
và dài lâu cho chúng sinh thì thử hỏi nền giáo dục đó đã toàn diện chưa?
Chúng ta và tất
cả mọi người sống giữa cuộc đời hầu như ai cũng mưu cầu cả. Mưu cầu để được có
cái ăn cái mặc, mưu cầu để được hạnh phúc, mưu cầu để được danh lợi, mưu cầu để
có sức khỏe, mưu cầu để được bình an…Nhưng những mưu cầu này là lòng tham ái
mang lại cho nên dẫu được hay không được thì con người vẫn bị khổ đau. Nếu mong
cầu không được mà khổ đau đó là lẽ đương nhiên. Nhưng mong cầu được rồi mà vẫn
bị khổ đau, đó là vấn đề vẫn còn nghi ngờ và suy tư của rất nhiều người trong
chúng ta. Là một người Phật tử, là một người am hiểu giáo lý Phật Đà thật sự
thì vấn đề này thực ra không cần phải nghi ngờ hay suy tư gì nữa. Vì rằng đó là
sự thật, một sự thực phủ phàng mà những ai còn mong cầu, còn tham ái đều phải
chấp nhận. Trong Kinh đức Phật dạy rằng những cái hạnh phúc mà chúng sinh đạt
được thì không thực có và huyễn hoặc mỏng manh như chùm bọt nước, như áng mây
chiều, như tia điện chớp, như hạt sương mai…chợt đến, chợt đi, chợt có, chợt mất
vì tất cả đều phải chịu sự chi phối của định luật vô thường. Cho nên khi có và
khi mất là chúng ta đều khổ đau.
“Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán.”
Đó là bài kệ
tụng trong kinh Kim Cang mà Thế Tôn đã tuyên thuyết. Chúng ta phải khởi lên
phép quán như thật về vạn pháp nhằm nội tĩnh, nhất tâm mà nhàm chán về chúng để
rồi ly dục, ly pháp bất thiện mà được an vui hạnh phúc. Mà phép quán, phép tu tập
này là gì? chính là ba môn học đưa đến vô lậu: Giới học, Định học và Tuệ học.
Như vậy, đức Phật tuy không thiết lập ba phạm trù như ngôn ngữ hiện đại: trí dục,
đức dục và thể dục, nhưng nội dung giáo dục Phật giáo đã bao gồm đầy đủ và toàn
diện từ trên hai ngàn năm trước.
Thật vậy, giáo dục Phật giáo chính là giáo dục giới, định, tuệ. Chính nền
giáo dục này mới có thể đem lại hòa bình và hạnh phúc thật sự lâu dài cho loài
người và cho cả thế giới. Vì chúng có công năng điều phục những tư duy, những ý
thức sai lầm trong mỗi con người. Tư duy và ý thức sai lầm đó chính là vô minh,
là tham ái và là nguyên nhân đưa đến khổ đau. Đức Phật dạy rằng khổ đau hay hạnh
phúc là do chính con người tạo ra chứ không phải từ sự thưởng phạt của đấng Toàn
năng hay Thượng Đế nào cả. Cho nên, giáo dục là giáo dục con người chính nó,
giáo dục con người tận diệt nguồn gốc của ái, thủ tức là bỏ ác hành thiện để được
an vui hạnh phúc. Chứ không phải dạy đấng Toàn năng ban phúc phạt khổ. Trong
kinh Pháp Cú đức Thế Tôn có dạy:
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý là chủ, ý tạo
Nếu với ý ôi nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo.(Pháp cú 1)
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng không rời hình.(Pháp cú 2)
Vậy nên, vấn
đề đặt ra ở đây chính là học tập và tu trì theo các thiện pháp mà đức Thế Tôn
đã dạy để đoạn tận tam độc tham lam, sân hận và si mê đã ngấm ngầm ngủ sâu
trong mỗi con người nhằm mang lại đạo quả Giải thoát.
Tu tập các
thiện pháp, trước hết theo Phật dạy là giữ gìn các giới cấm. Giới, như đã được
trình bày là được chia ra nhiều loại hay nhiều cấp bậc khác nhau: năm giới, mười
giới, hai trăm năm mươi giới hay nhiều hơn nữa. Nhưng nhìn chung, năm giới vẫn
là căn bản, vẫn là chuẩn mực đạo đức nói chung cho toàn thể xã hội lồi người.
Thứ nhất, giới
không sát sinh. Ta biết rằng tất cả chúng sinh đều có mạng sống, nên đức Phật dạy
mọi người không được giết và không bảo người khác giết. Yêu cầu phải bảo vệ, phải
trân trọng giá trị thiêng liêng của sự sống, đối với lồi người cũng như mọi lồi.
Bảo vệ, tôn trọng, nâng cao giá trị của sự sống đó là khái niệm trung tâm của đạo
đức Phật giáo. Đồng thời đó cũng là tính từ bi và bình đẳng trong hệ thống giáo
lý Phật Đà.
Nếu người người,
nhà nhà ai cũng giữ giới không sát sinh thì đất nước, thì thế giới khỏi phải lo
sợ chiến tranh, khỏi phải lo sợ khủng bố. Và khi ấy đao kiếm, bom đạn sẽ trở
thành vô nghĩa.
Thứ hai, giới
không lấy của không cho. Sống giữa cuộc đời ai cũng có nhu cầu về vật chất
để đáp ứng cho sự sống. Ta cũng có nhu cầu, người cũng vậy sao ta lại lấy cái của
người không đồng ý! Đức Phật dạy, cho đến nhỏ nhoi như cây kim ngọn cỏ nếu người
không cho thì không được lấy.
Và thuộc phạm
vi giới này không chỉ đơn thuần là những hành vi trộm cắp lộ liễu, mà còn gồm cả
những hành vi như buôn lậu, tham nhũng, hối lộ, lừa đảo, lật lọng trong buôn
bán để kiếm những món lời bất chính, lạm dụng hay chiếm dụng của công, trốn thuế
trốn nợ…đều thuộc về phạm vi trộm cắp. Khi ta nhìn rộng hơn, giới này đức Phật
dạy không những không trộm cắp mà còn phải biết bố thí, biết giúp đỡ, tương
thân tương ái, biết đem đến niềm vui cho kẻ khác…Mặt khác là phải biết tri túc,
sống biết đủ, bằng lòng với số tài sản của mình có được nhờ lao động của bản
thân, không nghĩ cách làm giàu thêm bằng cách làm ăn lừa lọc không chính đáng,
phi đạo đức.
Như thế, nếu
ai ai cũng giữ giới không lấy của không cho thì mọi người khỏi phải lo sợ giành
giật cướp bóc, khỏi phải lo sợ chiếm đoạt lừa lọc. Những trò bỉ ổ khia sẽ trở
thành vô nghĩa, mọi người không phải canh giữ, không phải đậy che. Khi đó, con
người ta sẽ xích lạ gần nhau hơn, sẽ thấy an ổn hơn và hạnh phúc hơn.
Thứ ba, giới
không tà dâm. Trong xã hội hiện đại, giới không tà dâm này lại càng được nỗi bật
hơn về mặt giá trị và càng cần phải được áp dụng một cách triệt để hơn. Chúng
ta thấy rằng, ngày nay những căn bệnh hiểm nghèo đồc hoành hành khắp đó đây do
đời sống tình dục bừa bãi gây ra. Chúng đã trở thành một nỗi lo lớn nhất và là
nỗi lo chung của toàn nhân loại. Đặc biệt trong đó là AIDS, một căn bệnh hiểm
nghèo chưa có thuốc trị và đã đe dọa nghiêm trọng đến mạng sống và hạnh phúc của
con người.
Mặt khác,
chính đời sống vi phạm tiết hạnh của vợ hoặc chồng của người khác đã cướp đi hạnh
phúc của gia đình mình cũng như gia đình họ, làm cho gia đình ly tán, con cái
chia lìa. Chúng ta cũng thường thấy giữa xã hội có biết bao cuộc ghen tuông do
đời sống tiết hạnh bất chính gây ra, rồi hậu quả của nó là đâm chém, vợ chồng
ly dị. Con cái cũng vì đó mà cù bất cù bơ rồi hư hỏng.
Do hậu quả xấu của nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền tảng đạo đức xã hội
cũng như đời sống phạm hạnh đi đến giải thoát. Nên đức Phật dạy người tại gia
thì phải một vợ một chồng, còn người xuất gia thì toàn đoạn dâm dục.
Thứ tư, giới không nói dối. Đức Phật dạy rằng giới này gồm cả không được
nói lưỡi hai chiều, không được nói lời thêu dệt, không được nói lời thô ác.
Chúng ta biết
rằng, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người và chỉ có
con người mới có ngôn ngữ. Ai cũng muốn được tin tưởng, ai cũng muốn được hịa
thuận, ai cũng muốn được lợi ích… thế nên, ta không được đem lời nói dối trá, lời
nói thô ác, lấy trái nói phải lấy phải nói trái, lấy không nói có lấy có nói
không…thêu dệt, ngược xuôi để cư xử với nhau. Người xưa thường nói: “Lời nói chẳng
mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.” Lựa lời mà nói tức là chọn những
lời nói chân thật, nhẹ nhàng, vui vẽ, hòa khí, lợi mình lợi người để đối xử với
nhau.
Một lời nói
có thể làm cho đất nước hưng thịnh, nhưng một lời nói cũng có thể làm cho đất
nước điêu tàn, chiến tranh (Nhất ngôn hưng bang, nhất ngôn tán bang). Và những
điều này đã được đức Phật chỉ dạy cách đây hơn hai nghìn năm. Ngài thấy được sự
nguy hại của lời dối trá khiến người ta đau khổ đến cùng tận địa ngục và từ lời
nói chân thật mang lại lợi ích, an lạc, hạnh phúc vô cùng cho cả nhân loại.
Cho nên Ngài dạy: không được nói lời dối trá mà phải nói lời chân thật.
Thứ năm,
không được uống rượu. Giới này gồm cả những điều không được dùng những chất
kích thích, những loại thuốc hưng phấn làm mê man đầu óc con người.
Trong kinh
Thiện Sinh đức Phật tuyên bố: “Này gia chủ, đam mê các loại rượu có sáu nguy hiểm:
tài sản bị tổn thất, hay gây tranh cãi, mắc nhiều bệnh tật, danh dự thương tổn,
quần áo hở hang để lộ âm tàng, trí lực bị tổn hại. Này gia chủ, nghiện các loại
rượu có sáu nguy hiểm như vậy.”
Giới không uống
rượu mặc dù nằm sau nhưng có thể quan trọng hơn cả. Vì một người say rượu thì
tâm trí bị mê mờ nên rất dễ phạm bốn giới kia.
Để cho bản
thân, cho gia đình, cho xã hội được văn minh, được hạnh phúc, đức Phật dạy
không được uống rượu, không được dùng các chất kích thích làm say sưa, làm mê mờ
tâm trí là vì thế.
Tiếp theo là
Định. Nhân giới mà sinh Định, nhờ công năng giữ giới mà tâm hồn được định tĩnh.
Và nhờ Định mà trí tuệ được khai mở. Và nơi đây cũng chính là lúc mà con người:
- Ý thức được
những khổ đau do sát hại gây ra mà nguyện không sát hại.
- Ý thức được
những khổ đau do sự lường gạt, trộm cướp và bất công gây ra mà nguyện không vi
phạm.
- Ý thức được
những khổ đau do tà dâm gây ra mà nguyện không tà dâm.
- Ý thức được
những khổ đau do lời nói thiếu chính niệm gây ra mà nguyện không nói dối.
- Ý thức được
những khổ đau do dùng chất ma túy và những chất kích thích làm say sưa gây ra
mà nguyện không dám dùng.
Như vậy, năm
giới của Phật giáo mang một ý nghĩa thù thắng cho tất cả mọi lồi. Mang lại sự
cân bằng trong sinh thái, tạo nên một nếp sống trật tự an bình trong xã hội,
làm cho mọi người mọi lỗi tin tưởng nhau và xích lại gần nhau hơn. Năm giới của
Phật giáo như thế có giá trị vượt thời gian và không gian. Và bất cứ ở đâu và bất
cứ thời đại nào, nếu con người còn tham ái là còn cần sự chế ngự của năm giới.
Vậy nên, năm giới này là nguyên tắc đạo đức căn bản để làm người, hòng xây dựng
một xã hội trật tự ổn định và mọi người được sống hạnh phúc.
Trong kinh Di
giáo đức Phật dạy rằng: “Chế tâm nhất xứ vô sự bất biện”. Khi tâm được chế định
vào một chỗ thì trí tuệ được khai thông. Và khi trí tuệ được khai thông chính
là khi con người nhận chân được giá trị thực tại của cuộc sống. Rồi từ đó con
người hết hoang mang, hết lo sợ khi phải đối diện với những già, những bệnh và
những chết, và như thê khổ đau sẽ vắng mặt. Con đường giáo dục như thế có chăng
chỉ là con đường giáo dục của Phật giáo và là con đường giáo dục mang tính tồn
diện là như thế.
CHƯƠNG III.
A.KẾT LUẬN.
Con
người là đối tượng, là trung tâm điểm để bàn bạc, nghiên cứu và tìm hiểu của hầu
hết các chủ thuyết, tôn giáo…Cùng với tất cả những vấn đề kinh tế, văn hóa,
chính trị, quốc phòng…cũng đều do con người mà có. Và suy cho cùng cũng không
ngoài mục đích phục vụ cho lợi ích cũng như hạnh phúc của con người.
Vậy
thì như đã bàn, con người là do duyên năm uẩn tập hợp mà thành. Và con người
cũng chính là kẻ thừa tự tất cả những hành vi và nghiệp lực của mình cả trong
ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Tất cả mọi vấn đề hạnh phúc hay khổ đau đều
do con người tạo ra và thưởng phạt ngay cho chính cuộc đời mình. Ngồi con người
ra không có bất cứ Thượng đế hay thần linh nào cho phép con người lên thiên
đàng hay dẫn xuống địa ngục. Như trong Khế Kinh đức Phật đã dạy:
“Tự ta gây ác nghiệp
Tự ta nhiễm cấu trần
Tự ta tránh ác nghiệp
Tự ta thanh tịnh tâm
Nhiễm tịnh do ta cả
Không ai thanh tịnh ai.” (Pháp
cú 165)
Xác
nhận rằng, ta là kẻ thừa tự của nghiệp thì chính giáo dục Phật giáo sẽ là nơi
khơi mở cho con người một tầm nhìn thiết thực và toàn diện về giá trị và thái độ
sống. Từ đó con người cải ác hành thiện, lợi mình lợi người nhằm đưa tới sự lắng
dịu các dục vọng và sân hận, đưa đến sự đoạn tận của vô minh, phiền não và khổ
đau. Đạo Phật như thế, phải được hiểu là con đường sống, là một nếp sống mang lại
thanh bình, hạnh phúc thật sự cho cá nhân, cho tập thể và cho cả cộng đồng.
Và với giáo
lý vô ngã, Phật giáo chủ trương một nền giáo dục vô ngã. Tác giả thiết nghĩ rằng,
nếu được chấp nhận thì con đường giáo dục như thế là toàn diện, nhân bản và trí
tuệ. Do vì vô ngã nên mới có thể có một nền giáo dục cho cả mọi người, của mọi
thời đại. Và đến đây, chúng ta không cần bàn luận hay tranh cãi gì nữa, chỉ có
thể chiêm nghiệm tư duy và tu tập nhằm mang lại cứu cánh tối hậu. Điều này đấng
Thiện thệ của chúng ta cũng đã chỉ dạy trong Kinh Tương Ưng: “Này các Tỷ kheo,
Ta không tranh chấp với đời, chỉ có đời tranh chấp với ta. Này các Tỷ kheo, người
nói pháp không tranh chấp với một ai ở đời” (Tương Ưng III, 165. sđd). Như vậy, đức Thế tôn đã dạy cho
chúng ta một tầm nhìn vô tiền khống hậu, một tầm nhìn mang đậm bản sắc của giá
trị thực tại. Vì như chúng ta biết, khi ta chấp nhận sự tranh chấp, chấp nhận sự
tranh luận, thì theo logic học trả lời tức là chấp nhận cách đặt vấn đề của người
khác. Và như thế ta đã đưa vào thế tự chống đỡ. Trong một mức độ nào đó là ta
đã tự đi ra khỏi chỗ đứng của mình, và tự từ bỏ lập trường từ bỏ phương pháp đặc
thù của mình. Mặt khác, một nền giáo dục tâm linh thiết
thực giúp con người đoạn tận khổ đau trong tận cùng gốc rễ thì không cần phải
tranh luận, mà cần ở sự cứu kính. Nghĩa là dạy con người phải tự chiến thắng
mình bằng cách đọa tận gốc rễ những tham lam, sân hận và si mê để hết khổ đau.
Vì chính tam độc này là nguồn cội, là căn nguyên của mọi tội khổ. Khi ta nhìn
thực tại với lòng tham ái, thì chúng không cho ta được lợi ích gì mà chỉ cho ta
khổ đau. Và khi ta cởi bỏ lòng tham ái để nhìn vạn pháp, thì thực tại vẫn còn
đó, vẫn trôi chảy nhưng khổ đau thì lại vắng mặt. Ta chọn cái nào đây? Chỉ một
chút tham ái là người mê. Nhưng gạt bỏ tham ái là người trí, đây là kẻ đã tự thắng
mình. Và chiến thắng như thế, theo đức Phật đó là một chiến công oanh liệt nhất,
lẫy lừng nhất trong tất cả các chiến trường. Mở ra một thế giới an bình, chúng
sinh an lạc và hạnh phúc. Thế giới Ta bà ngũ trược trở thành cõi Tịnh độ ngay
bây giờ và tại đây. “Hận thù diệt hận thù, không bao giờ có được. Tình thương
diệt hận thù, là chân lý ngàn thu.” Một câu Kinh pháp cú đã trở thành bài học
muôn thuở là như thế.
B.TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Thích Minh Châu dịch-Kinh Tương Ưng Bộ I, II, III,
IV, V- Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam 1993.
- Thích Minh Châu dịch-Tăng Chi
Bộ Kinh I- Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam- 1996.
- Thích Minh Châu dịch-Trung Bộ
Kinh I, II, III- Viện Nghiên cứu Phật Học Việt Nam 1992.
- Thích Minh Châu dịch-Kinh Trường Bộ I-Viện nghiên cứu
Phật Học Việt Nam
1996.
Thích Minh Châu -Ch ính
Pháp Và Hạnh Phúc- NXB Tôn Giáo 2001.
- Thích Minh Châu-Hãy Tự Mình Thắp Đuốc Lên Mà Đi-Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam-1998.
- Đinh Văn Đỗ- Giáo Dục Cộng Đồng-q.1- Kiến Tạo.
- Lâm Ngữ Đường-Tinh Hoa Xử Thế-NXB Đồng Nai 1996.
- Nhiều Tác Giả-Giáo Dục Phật Giáo Trong Thời Hiện Đại-Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam-NXB Tp. Hồ Chí Minh.
- Thích Nữ Trí Hải chuyển dịch-Thanh Tịnh Đạo-Buddhaghosa-
NXB Tôn Giáo 2001.
- Nhất Hạnh-Hiệu Lực Cầu Nguyện- Lá Bối Xuất Bản.
- Nguyên Hồng-Giáo Dục Học Phật Giáo- NXB Tôn Giáo.
Thích Phước Sơn biên soạn-Thanh
Tịnh Đạo Luận Toản Yếu- NXB Tôn Giáo 2004.
- Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Sinh Huy-Giáo Dục Học Đại
Cương- NXB Giáo Dục 2000.
- Thích Thiện Siêu-Vô Ngã Là Niết Bàn- NXB Tôn Giáo
2000.
- Thích Thiện Siêu-Ngũ Uẩn- Học Viện Phật giáo Việt Nam tại
Huế.
- Lê Văn Siêu-Văn Minh Việt Nam-
Nam
Chi Tùng Thư 1964.
- Thích Phước Sơn biên soạn-Thanh Tịnh Đạo Luận Toản Yếu-NXB
Tôn Giáo 2004.
- Tuệ Sỹ-Thắng Man Giảng Luận- Ban Tu Thư Phật Học.
Tuệ Sỹ-Triết Học Về tính Không- An Tiêm xuất bản-Sài
Gòn
- Thích Chân Thiện-Lý thuyết Nhân Tính Qua Kinh Tạng
Pàli- NXB Tp. Hồ Chí Minh.
- Thích Chân Thiện-Phật Học Khái Luận- NXB Tp.Hồ Chí
Minh.
- Thích Chân Thiện-Tìm Vào Thực Tại- NXB Tp. Hồ Chí
Minh 1999.
- Thích Chân Thiện-Tăng Già Thời Đức Phật -NXB Tôn
Giáo 2000.
- Thích Ấn Thuận-Phật Pháp Khái
Luận- NXB Đại Học và Giáo Dục Chuyên Nghiệp 1992.
- Linh Thụy chuyển ngữ-Đạo Lý Cho Thiên Kỷ Mới-Dalailama-
Ban Tu Thư Phật Họ.
- Hồng Xuân Việt- Nhân Cách Trước Đã-NXB Thanh Niên
1999.
_________________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét