Phần 5
41. Hai con quỷ tranh vặt
42. Che da lạc ñà
43. Mài ñá
44. Ăn bánh
45. Giữ của
46. Ăn trộm trâu
47. Giả tiếng oan ương
48. Chó và cây
49. Vị tiên lầm lộn
50. Sửa lưng gù
41. Hai con quỷ tranh
vặt
Thuở xưa, có hai con quỷ lượm ñược một cái rương, một cây gậy, một ñôi guốc. Con nào cũng ñều cho là
riêng mình ñược, tranh chấp lẫn nhau mãi không thôi.
Bấy giờ
có người ñi ñến thấy thế, hỏi chúng nó:
- Ba món nầy hữu dụng như thế nào, mà
chúng bây giành nhau như vậy? Hai con quỷ trả
lời:
- Cái rương có thể hiện ra các thức ăn, áo mặc, mùng mền và tất cả tài sản. Cái gậy anh chỉ cầm nơi tay thì tất cả thù ñịch ñều quy phục nơi anh, không dám chống cự. Ðôi guốc nầy anh mang nó thì có thể ñằng vân ñến phương xa trong nháy mắt.
Người ấy nghe xong, bảo hai con quỷ:
- Chúng bây ñi nơi khác ñộ một chốc
rồi trở về, ta sẽ phân xử công bình cho.
Hai con quỷ tin lời người kia chạy nơi khác. Người kia vội vã ôm rương, cầm
gậy, mang guốc bay lên hư không, rồi từ trên hư không, nói với chúng nó:
- Hiện tại chúng bay ñã
ñược sự công bình, vì không còn chi ñể tranh dành nhau nữa.
Hai con quỷ nghe xong, rất khổ não nhưng ñều bó tay chịu mất của, không biết
làm
cách nào nữa ñược.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Sự bố thí cũng như cái rương báu, tất cả tư tài hưởng dụng
ở cõi
nhân, thiên ñều từ trong nhơn lành bố thí mà có. Thiền ñịnh ví như cây gậy báu,
người tu ñịnh có thể
hàng phục
ñược
oán
tặc, phiền não, tham, sân, si. Trì giới tỉ như ñôi guốc
báu, giới luật thanh tịnh ñược sanh thiên, hoặc chứng Niết bàn tịch tịnh. Hai con quỷ cũng như các
tà
ma ngoại ñạo, bọn ngoại
ñạo
ở trong ngoại
ñạo,
bọn
ngoại ñạo ở trong pháp hữu lậu tìm cầu quả báo an vui, chung cục ñều không thể toại
nguyện. Chỉ có nhất tâm, nhất ý tu các hạnh lành như: bố thí, trì giới, thiền ñịnh, v.v...
mới có thể thoát ly
khổ não, chứng ñạo Niết bàn an vui.
42. Che da lạc ñà
Thuở xưa, có người thương gia cùng hai người
nô
bộc dắt con lạc ñà ra xứ ngoài tìm kế sanh sống,
ñem theo một ít hàng lụa quý giá
vô song và mùng mền tốt ñẹp tột bực; tất cả hàng hóa
ñều
chở trên lưng con lạc ñà. Ði ñược
nửa ñường con lạc ñà chết,
người thương gia bèn lột da
lạc ñà ñể lại, rồi sửa
soạn ñi trước, bảo hai người nô bộc ở lại xem chừng. Khi chia tay, y căn dặn hai người ấy:
- Chúng bay hãy chăm nom chút các vật nầy cho kỹ lưỡng, hãy căng da con lạc ñà
ra ñừng ñể nó ẩm ướt.
Sau khi người thương gia ñi rồi, không bao lâu thì trời mưa rất lớn, hai người nô
bộc sợ da lạc ñà
bị ướt, bèn ñem hàng lụa quý giá và mùng mền tốt ñẹp ñậy lên trên.
Nhưng hàng quý giá ñem so với giá tiền da lạc ñà, ñắt hơn gấp trăm ngàn lần ấy ñều bị hư mục.
** Chuyện
nầy
tỉ dụ: Người học Phật
pháp, không chịu nghiêm
trì tịnh giới, tu
ñịnh, khai huệ mà chỉ một
bề
lo tu bồi công ñức thí tài như: xây tháp, tạo chùa, cúng
thí cho chung tăng, v.v... Hành ñộng như thế chỉ là bỏ gốc theo ngọn, không thể thoát ly
sanh tử
chứng quả Niết bàn.
Vì lẽ ñó, Phật tử trước phải lo tinh nghiêm hộ trì giới luật, rồi sau mới tu tài thí và các hạnh lành, như hai người hầu của gã thương gia kia, phải trước hết lo giữ gìn
những hàng hóa quý báu, rồi sau hãy gìn giữ da con lạc ñà, như thế mới thật là hợp lẽ.
43. Mài ñá
Thuở xưa, có một người mỗi ngày chuyên tâm mài một viên ñá lớn, trải qua
nhiều
năm trở thành viên ñá nhỏ, kết quả chỉ có thể ñem
làm ñồ chơi, không dùng ñược việc
gì
cả. Người kia làm một việc phí nhiều thì giờ và lao lực mà kết quả không có chi
ñáng kể.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Nhiều người tinh cần lao khổ tu học phải bền chí cầu ñạo
quả cao siêu, trái lại, chỉ cầu chút danh lợi, chỗ dụng công rất nhiều mà thu hoạch rất ít, hoặc giả rủi ro lầm lạc, trở lại tăng thêm tội lỗi khôn cùng.
44. Ăn bánh
Thuở xưa, có một người ñương ñói bụng, ñến tiệm bánh mua bánh ăn. Ăn một
loạt sáu cái mà vẫn không no; mua thêm cái
thứ
bảy,
vừa ăn ñược nửa cái thì
no. Lúc bấy giờ y rất hối hận vừa vả
miệng vừa nói rằng:
- Sao ta ngu ngốc không biết tiết kiệm thế! Nếu sớm biết chỉ ăn nửa cái sau ñủ no,
thì nên mua nửa cái bánh sau có hơn không; mua ăn làm chi sáu cái bánh trước cho
hao phí thế?
** Chuyện nầy tỉ dụ: Người tu hành phải chuyên cần khổ tu học trải qua nhiều thời gian mới có ngày ñược quán thông chứng ngộ. Có một số người không bền chí
cần
tu, chỉ ước mong
mau chứng ngộ; những người
ñó
cùng với người
ăn
bánh kia ñã
quan niệm sai lầm, thật ñáng thương.
45. Giữ
của
Thuở xưa, có một người có việc cần ñến phương xa,
khi
sắp ñi, kêu người nô bộc dặn:
- Con ở nhà
phải coi chừng cửa
nẻo
cho cẩn thận và xem
lại
dây buộc con lừa có chắc
chắn không, ñừng ñể nó sút dây chạy mất.
Sau khi người chủ ñi rồi, ngày nọ, xóm gần có ñờn ca xướng hát rất vui. Người nô
bộc biết có ñám hát
vui như thế, trong lòng rộn rực không yên, muốn ñi
xem
hát. Bây giờ bèn gỡ
cửa buộc lên lưng lừa, dắt lừa
ñi
xem hát.
Sau khi người nô bộc ñi rồi, kẻ trộm vào nhà vơ vét hết ñồ ñạc, tiền của, không còn một món nào.
Khi người chủ trở về thấy trong nhà ñồ ñạc, tiền của bay ñi ñằng nào sạch trơn, rất lấy làm quái lạ, liền tra gạn người nô bộc rằng:
- Tại sao có việc
lạ ñời như thế? Người bô bộc
trả
lời:
- Ông chủ bảo tôi giữ của, xem
chừng dây buộc lừa và con lừa, bây giờ
ba món ấy
ñều còn ñủ, không sót một vật nào. Ngoài ra tất cả
tôi ñều không biết.
Người chủ nghe nói thế tức giận vô cùng, nổi cơn thịnh nộ trách mắng người
nô bộc rằng:
- Ngươi là ñồ ngu ngốc, bảo ngươi giữ của, chính là vì giữ những tài vật trong nhà, bây giờ
tài
vật ñã mất hết, còn lại những cánh cửa dùng vào việc gì?
** Chuyện nầy tỉ dụ: Ðức Như Lai dạy bảo chúng ta phải luôn luôn thâu nhiếp
tâm
niệm, giữ gìn sáu
căn môn, ñừng ñể giặc sáu trần xâm nhập. Có một số người
không chịu nghe lời Phật dạy, trở lại tham cầu danh lợi, mơ tưởng ăn ngon mặc ñẹp, của nhiều, giữ chắc con lừa vô minh và sợi dây tham ái, mở rộng cửa lớn sáu căn; kết
quả bị bọn trộm cướp sáu trần phiền não xâm nhập; tất cả tài bảo công ñức, ñạo
phẩm ñều mất, hằng trôi lăn trong biển sanh tử khốn khổ.
46. Ăn trộm trâu
Thuở xưa, có mấy người cùng làng, ăn trộm một con trâu, ñem
giết ăn thịt. Người mất trâu ñi tìm ñến làng ấy, thấy bọn họ, anh ta mới hỏi rằng:
- Trâu ta
có trong làng các
người không?
Bọn ăn trộm trâu trả lời:
- Chúng ta không có làng.
- Trong làng của các người có một cái ao, các người ở bên bờ ao giết trâu ta ăn thịt phải không?
- Chúng ta không có ao.
- Bên ao có một bụi cây phải không?
- Cũng không có bụi cây.
- Các người ăn trộm trâu ở phía
ñông phải không?
- Không có phía ñông.
- Các người ăn trộm trâu vào lúc
chính ngọ phải không?
- Không có chính ngọ.
- Cứ theo lời
các người nói: Không có làng, không có ao, không có cây, thôi cho
ñược ñi. Không lẽ trong vũ trụ không có phương ñông, không có chính ngọ? Do ñấy ta biết chắc lời các người ñều là gian dối không thể tin ñược. Trâu của ta nhất
ñịnh là
các người bắt trộm ăn thịt rồi, không còn chối cãi gì nữa.
Bọn dân làng ấy không còn ñường chối cãi ñành phải cúi ñầu nhận tội ăn trộm trâu.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Người tu hành theo pháp của Phật mà ñi phá giới phạm trai, thường thường che giấu tội ác, không chịu phát lỗi sám hối, cải dữ làm lành, trở
lại luôn luôn mượn ñủ lý lẽ bào chữa thuyết của mình, nhưng kết quả không thể nào
che giấu
nổi
tội
ác ñã
tạo phải chịu ñủ khổ não ñau buồn.
Chỉ
có những ai
mạnh mẽ thừa nhận tội lỗi của mình ñã trót tạo, khẩn thiết phát lời sám hối tội khiên, mới có thể bước
lên
ñường giải thoát của chư
Phật.
47. Giả tiếng oan ương
Thuở xưa, có một quốc gia ñến ngày lễ khánh tiết, các hàng phụ nữ dùng thứ hoa
quý ñẹp tên là ưu-bát-la
giắt trên ñầu, làm món ñồ trang ñiểm tuyệt diệu.
Bấy giờ, có một người ñàn ông nghèo thương
vợ vô cùng: ngày lễ khánh tiết gần
ñến, các
phụ
nữ ñều ñã dự bị thứ hoa
ñẹp ấy ñể
trang ñiểm, còn vợ y không có. Chị vợ biết chắc chắn mười phần mất thể diện, than với chồng rằng:
- Anh làm
thế
nào có hoa ưu-bát cho em
trang ñiểm, em
mới mãi mãi làm
vợ
anh, nếu không em xin ly dị.
Anh chồng nghe thế hoảng hốt lo sợ vô cùng, nhưng anh có tài giả tiếng chim
oan
ương, giống như hệt. Bây giờ mới nghĩ rằng: "Trong ao vua có rất nhiều hoa ưu-bát,
ta tìm
cách ăn trộm một ít cánh giả sử
rủi ro người giữ ao biết ñược thì ta
giả
kêu
tiếng chim oan ương.
Nghĩ thế rồi anh ta ñi ñến ao vua trộm hoa. Ðương khi thò tay bẻ, làm mặt nước
giao ñộng rung rinh, người giữ ao hay ñược hỏi rằng:
- Ai trong ao ñó?
Anh ta kinh hoảng bối rối quên giả
kêu tiếng chim oan ương, bèn vụt miệng nói:
- Ta là chim oan ương,
Người giữ ao nghe
tiếng biết tiếng người bèn ñến ao bắt anh giải ñến vua trị tội.
Trong khi ñi ñường anh ta giả kêu tiếng oan-ương giọng in không khác một tí.
Người giữ ao cười nhạt nói rằng:
- Hồi nảy không giả kêu, bây giờ mới giả kêu chẳng là vô ích?
** Chuyện nầy tỉ dụ: Phàm muốn làm việc chi phải làm ngay cho kịp thời, không
nên chuyện ñáng làm ngày
nay
mà
cứ dần dà ñể
ñến ngày mai ngày mốt; ñến khi thời cơ thuận tiện qua rồi, hối hả làm cũng không kịp. Có một số người trọn ñời làm ác,
không bao giờ biết tự xét lại mình, ñến khi sắp chết mới tỉnh ngộ ăn năn làm lành, lánh dữ, nhưng than ôi, có kịp ñâu nào! Ðành phải mang nghiệp ác
báo!
48. Chó và cây
Thuở xưa,
có một con chó ngủ dưới gốc
cây, thình lình có một trận gió thổi ñến, cành cây gãy rớt trên lưng. Nó hoảng kinh chạy lại một chỗ trống dừng lại nghỉ, mắt
vẫn nhắm, không thấy nhánh cây gãy ñập vào lưng, nó cũng không trở lại xem
bụi cây
nọ.
Ðến chiều nó vẫn còn ở tại ñó nghỉ
ngơi. Nhưng một lúc, sau nó mở mắt ra ngó tứ
phía, thấy xa xa có một trận gió thổi qua các hàng cây, làm
cho
nhánh lá không ngừng chuyển ñộng. Nó tự nói một mình: "Cây gọi ta trở về
chỗ cũ".
Thế rồi nó bon bon chạy về dưới gốc cây xưa.
** Chuyện nầy tỉ
dụ:
Người tu
học Phật
pháp, chí nguyện phải kiên quyết không dời ñổi, không nên vì sư trưởng la rầy quở trách, liền muốn bỏ ñi. Trong thời gian lìa thầy cách bạn gặp nhiều nghịch cảnh khổ tâm, rồi ăn năn muốn trở về thân cận với sư trưởng.
Ði ñi lại lại uổng phí thời gian, thật là hành ñộng sai lầm ñáng thương xót.
49. Vị tiên
lầm lộn
Thuở xưa, có hai ñứa nhỏ chơi tại bờ sông,
chúng nó vớt ñược một sợi lông trên
mặt
nước. Bấy giờ chúng nó mới tranh cãi nhau: một ñứa nói râu của Tiên, một ñứa nói lông cọp.Mỗi ñứa
ñều
cho lý lẽ của mình là ñúng hơn, mỗi ñứa ñều có lý do xác
ñáng, không ñứa nào chịu nhường.
Bây giờ có một vị tiên từ bờ sông ñi lại, chúng nó bèn ñến thỉnh cầu phán xét dùm. Vị tiên không trả lời ngay câu hỏi của chúng, mà thò tay trong ñãy mình lấy ra một nắm hột vừng và gạo, bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến một hồi, nhổ ra
trên bàn tay
trắng nõn, ñưa cho chúng nó xem và nói:
- Nầy các em, vật gì trong tay ta
thật giống phân con chim sẻ. Hai ñứa nó chẳng hiểu gì.
Vị tiên ñáp không ñúng lời chúng nó hỏi.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Có người thuyết pháp ưa nói lý suông, viễn vông mơ hồ
không rõ rệt, còn chánh lý thì không chịu thuyết giảng, ñối với người ñã không lợi ích,
mà
tự mình chỉ uổng công nhọc tinh thần. Tình trạng tổn mình hại người ấy cùng với vị
tiên ñáp không trúng ñề, ñều là chuyện ñáng chê
cười cả.
50. Sửa lưng gù
Thuở xưa, có một người lưng gù, mời lương y tới ñiều trị. Lương y bèn dùng một ít sữa thoa trên lưng, rồi ñè người kia ở giữa hai tấm ván, ñể nằm trên thềm nhà như người thường. Người ấy ñau ñớn không thể tưởng tượng và hai tròng con mắt ñều lọt ra
ngoài, rốt cuộc
lưng gù vẫn không trị ñược.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Có người muốn tu phước lành, làm việc bố thí, lại dùng
những thủ ñoạn phi pháp gian tham, tranh ñoạt một cách khéo léo, tranh thủ tiền tài không chính ñáng, ñem ra thọ dụng: xây tháp, cất chùa, bố thí, cúng Tăng và lên tượng Phật. Kẻ ấy cũng như vị lương y ñem hai tấm ván ép lưng gù, mong chữa trị
cho ngay thẳng và làm thế cũng chỉ tạo thêm nghiệp ác trầm luân, tăng gia khổ não, không thể viên thành công ñức bố thí phần nào.
--- o0o ---
Phần 6
51. Người tớ gái
52. Trò vui giả dối
53. Lão sư bị hành hạ
54. Ðầu rắn và ñuôi rắn tranh cải
55. Cạo râu vua
56. Cái không có
57. Bị
ñạp
rụng răng
58. Chia của
59. Xem làm bình
60. Thấy vàng dưới nước
51. Người tớ gái
Thuở xưa, có năm người chung tiền lại mướn một tên tớ gái. Một trong năm
người bảo tên tớ gái rằng:
- Con hãy giặt quần áo cho chú.
Bọn người kia
cũng bảo giặt quần áo cho mình.
Năm người ñều bảo giặt một lượt, khiến tên tớ gái rất khó khăn, không có cách gì
ñể ñối phó. Cô ta thầm nghĩ rằng:
hai.
- Ta chỉ có thể trước giặt cho một người ñã, rồi sau mới giặt tiếp cho người thứ
Bây giờ cô ta ñem quần áo của một người giặt trước, người thứ hai thấy thế
nổi
giận ñùng ñùng:
- Chúng ta
ñồng xuất tiền ra
mướn mày,
tại
sao mày chỉ giặt riêng
cho
một mình người ñó?
Y liền ñánh tên tớ gái mười roi. Tên tớ gái
chỉ
giặt trước cho một người chủ, mà
bọn người chủ kia ñều nổi cơn thịnh nộ ñối
với
cô ta, và ñều ñánh cô ta mười roi thật
ñau.
Thương thay cô tớ gái vô cớ
chịu ñòn.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Y theo kinh Phật nói: Thân này do nhân duyên phiền não hợp thành. Vì thế thân này không thể hằng chịu sanh, già, bệnh, chết ép bức, không
thể
tự thoát ly;
cũng như tên tớ gái bị năm người chủ ñánh không khác.
52. Trò vui giả dối
Thuở xưa, có một nhà âm nhạc trứ danh, vua thỉnh vào cung ñiện tâu, và hứa trả
một ngàn tiền vàng.
Chừng diễn tấu xong,
vua không chịu trả tiền. Nhà âm nhạc theo ñòi mãi, mà vua
nhất quyết không trả, lại nói;
- Ngươi tấu nhạc cho ta nghe, chẳng qua
khiến cho ta thưởng thức một trò vui
luống dối. Ta hứa trả tiền cũng chỉ là muốn cho ngươi luống vui mừng mà
thôi.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Những ñiều thế
gian cho là vui, kỳ thật ñều là giả dối. Ở trong cuộc
ñời vô thường huyễn hóa, sanh diệt biến thiên, không có một phút giây ngưng nghỉ, như trăng dưới nước, bóng trong gương, làm sao tìm ñược sự an vui
chơn thường vĩnh viễn.
Nếu người không hiểu ñược ñạo lý nầy, thỉ chỉ tự sanh phiền não.
53. Lão sư bị hành hạ
Thuở xưa, có một lão sư có hai người ñệ tự
theo hầu, vì chân ông có bệnh không duỗi ra
ñược, thường phải chống nạng ñi. Ông nhờ hai người ñệ tử ấy xoa bóp, nhưng
họ thường ngày không hòa
thuận với nhau. Người nào cũng nói:
- Không phải ta
chán
ghét ngươi, mà
chính là
ngươi chán ghét ta. Hai người coi nhau như oan gia nghiệp báo.
Hôm nọ, một người có việc ñi nơi khác, người ở lại nhà bèn dùng ñá ñập gãy cái chân lão sư mà
người ñệ tử ñi
vắng thường ngày xoa bóp.
Khi người kia trở về, thấy vậy vô cùng phẫn nộ,
ñịnh tâm báo thù, lập tức dùng ñá ñập gãy cái chân lão sư, mà người học
trò
ở nhà thường ñấm bóp.
** Chuyện
nầy tỉ
dụ: Người
tu học Phật
pháp thường có tình trạng
nầy:
phái ñại thừa bài xích tiểu thừa, hoặc giả tiểu thừa chê bai ñại thừa, hoặc tôn giáo nọ vô cớ phản ñối tôn giáo kia. Phật tử tranh chấp như thế, chính là tự tay
mình ñem kinh giáo của Phật hủy diệt.
54. Ðầu rắn và ñuôi rắn tranh
cãi
Một hôm nọ, ñầu rắn và ñuôi rắn sanh ra
tranh chấp lẫn nhau.
Ðuôi rắn nói:
- Hôm nay ñể
ta
ñi trước.
Ðầu rắn trả lời:
- Thường ngày ta ñi trước, tại sao nay ngươi ñòi ñi ngược như vậy?
Ðầu rắn và ñuôi rắn ñều nhận thuyết của
mình có lý hơn, tranh chấp với nhau mãi.
Rốt cuộc, ñầu rắn chuyển mình ñi trước,
ñuôi rắn bèn quấn chặt vào thân cây không nhả, ñầu rắn ñi không ñược, ñành phải nhường cho ñuôi rắn ñi trước mình. Vì ñuôi rắn không có mắt nên chạy lui và rơi vào hầm lửa bên ñường, làm cho toàn thân rắn
ñều bị cháy thui trong lửa.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Thầy trò phải kính mến lẩn
nhau, có một số người ñệ tử chê thầy già cả lẫn lộn, muốn dành quyền lãnh ñạo của thầy, không tôn kính bậc sư trưởng. Nhưng vì ñệ tử tuổi còn thơ, không
có kinh nghiệm, không tôn trọng kỷ luật,
quy
ñiều, ra làm việc
thường hay lầm lạc, thường bị thất bại nặng nề.
Chính mình phải chịu sự
ñại tốn thất.
55. Cạo râu
vua
Thuở xưa, có một ông vua có người hầu cận thân tín.
Người hầu cận ấy bình nhật rất trung thành. Vua phi thường tin cẩn. Có lần vua ñem quân ñi giao chiến nguy
hiểm. Người hầu cận không ñoái ñến thân mạng mình, can ñảm
nhảy vào giải vây cứu thoát, bảo vệ cho vua ñược an toàn, do ñó vua rất cảm phục. Bấy giờ vua mới hỏi rằng:
- Hiền khanh muốn cái chi trẫm ñều ban cho cả.
Người hầu cận ấy trả lời;
- Hạ thần không yêu cầu ñiều chi hết, chỉ xin cạo râu vua. Vua cười trả lời;
- Hiền khanh muốn vậy, trẫm rất bằng lòng ñể hiền khanh mãn nguyện.
Sau ñó, mọi
người nghe ñược việc ấy, bèn chê cười anh ta là ñồ
ngu si. Phải chi yêu cầu vua
cho
nửa giang sơn gấm vóc ñể
cai
trị, hoặc giả giúp cho một cơ hội thuận
tiện học hành, chắc chắn vua sẽ ưng thuận. Tại
sao lại
không yêu
cầu những ñiều cần thiết ấy, mà
chỉ
xin ñược
cạo râu vua, quả thật là
người ñại ngu ngốc.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Sanh ñược thân người rất khó, ñược nghe Phật pháp lại
càng khó hơn. Chúng ta có diễm phúc ñã ñược thân người, lại ñược nghe Phật pháp,
ñầy ñủ hai nhân nguyên khó có ñược rồi. Chớ nên dùng tâm trí nhỏ hẹp, chỉ vâng giữ chút ít giới luật, liền cho mình ñã ñầy ñủ hoàn toàn, không cầu tấn tới, không cầu diệu Pháp Niết bán. Vĩnh viễn bị trôi lăn trong vòng sanh tử, trở lại cho là ñược lợi
ích lớn lao, ñến nỗi ñời ñời mãi si mê lầm lạc, cùng với người hầu cận xin ñược cạo râu vua ñều là hạng người ñáng chê
cười.
56. Cái không có
Thuở xưa, có hai người ñi ñường, thấy một người ñẩy chiếc xe ñầy cây vừng
sống, xe bị sa vào vũng bùn không thể kéo ra. Bây giờ, người kéo xe yêu cầu hai
người kia rằng:
- Các bạn làm ơn kéo hộ tôi chiếc xe
nầy
lên khỏi bùn. Hai người ñồng hỏi:
- Chúng tôi kéo hộ xe cho bạn, bạn sẽ ñền ơn cho chúng tôi bằng thứ gì.
Người ñẩy xe
trả
lời:
- Không có vật gì ñền ơn các bạn cả.
Bây giờ hai người xúm xít lại kéo hộ chiếc xe ra khỏi bùn. Bọn họ ñòi người ñẩy xe
ñền ơn.
- Hãy ñem cái "không có"
cho chúng tôi ñi. Người ñẩy xe lại nói:
- Không có gì hết.
Môt trong hai người bướng bỉnh yêu cầu:
- Hãy ñem cái "không có"
cho
chúng tôi. Tuy tôi không biết cái "không có"
ra làm
sao cả, nhưng phải là
cái "không có".
Người kia nói thế, rồi
chìa tay ra mãi, ñể ñợi cầm lấy cái "không có", không chịu
co tay vào. Người kéo xe bối rối không biết làm thế
nào
ñể giải quyết.
Trong lúc ấy, một trong hai
người hiểu ra lẽ thật, vừa cười
vừa nói với
người
bạn
rằng:
- Thôi, chúng ta nên ñi, bất tất phải nhiều lời qua lại. Người ñẩy xe nói "không có
chi
hết" chính là
ñã
ban cho chúng ta
cái "không có"
rồi.
** Chuyện nầy hội ý trong cảnh giời "không, vô", nói không có chi hết, trở lại chấp cái
"không có". Tỷ
như người thể hội
lý
"không, vô" trở lại chấp cái hình tướng "không, vô"
hiển hiện, bèn bị sa lạc vào cảnh giới "vô sở hữu xứ thiên".
Một trong hai người nhận biết không có cái "không có" ví như người ñã khế nhập
lý ñược chơn không: "không", "vô tướng", "vô nguyện".
57. Bị ñạp
rụng răng
Thuở xưa, có một phú ông, xung quanh có rất nhiều người hầu hạ cung kính; trước mặt, họ thường khen ngợi ca tụng ông. Phú ông có bệnh thường khạc
ñờm, mỗi lần khạc ra, thì bao nhiêu là
người tranh nhau ñạp lên ñờm dãi ấy.
Trong ñó có một
người thường ñến sau,
không ñạp ñược lên ñờm của phú ông ñã
nhổ, trong tâm rất buồn rầu, tự nghĩ: "Giả sử ñợi ñờm nhổ trên ñất rồi mới ñạp lên, thì ta
không ñạp kịp ñược. Chi bằng khi phú ông sắp nhổ ñờm ta ñạp trước".
Sau khi quyết tâm như vậy rồi, cho ñến lúc phú ông vừa tằng hắng một tiếng,
chính là sắp khạc ñờm, y bèn vội vã xô mọi người, lấn vào ñạp trên mặt phú ông một
cái. Y dùng sức quá mạnh ñạp lên, khiến cho phú ông bị
rụng răng, sứt môi, méo
miệng.
Phú ông quá ñau ñớn, buồn rầu bèn hỏi:
- Tại sao ngươi nở ñạp sứt môi ta?
Người kia
trả
lời:
- Tôi mến ông lắm, thường mong ñược ñạp lên ñờm của ông,
nhưng mỗi lần tôi
muốn ñạp, thì người khác lại tranh, xô tôi ra; vì thế hôm nay tôi ñạp trước trên mặt ông khi ñờm ông sắp ra
ñến
miệng.
Phú ông nghe rồi vừa nổi giận vừa tức
cười.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Vô luận làm một việc gì, cần phải ñợi thời cơ. Thời cơ chưa
tới
dù miễn cưỡng làm, cũng chẳng thành công, trở lại
sanh nhiều khổ não. vì thế mỗi
khi
cần làm việc chi cần phải suy nghĩ và quan sát cho kỹ càng, có hợp thời hay
không ñã, rồi hãy
ra
làm thì chắc chắn mười phần thành công rực rỡ.
58. Chia của
Thuở xưa, trong nước Mala có một người
dòng Sát-ñế-lợi mắc bệnh hiếm nghèo,
biết mình sắp chết, bèn gọi hai ñứa con lại trối trăng:
- Sau khi cha chết, các con ñem tài sản của cha chia với nhau cho ñồng ñều.
Chẳng bao lâu người cha chết. Hai ñứa con y theo lời di chúc của
cha,
ñem tài sản chi làm hai phần ñều nhau.
Nhưng chia ñi chia lại hoài cũng không ñều ñược.
Người
anh
nói phần của người em nhiều, người em nói anh chia không ñều. Hai anh em
tranh chấp mãi không thôi, mới ñến một ông lão,
nhờ phân giải.
Ông lão bảo hai anh em:
- Ta có một cách khiến hai anh em ñược vừa lòng: ñem mỗi món ñồ cắt ra làm
ñôi, mỗi người một nửa, như thế
há
không ñồng ñều ư?
Hai anh em nghe rồi ñều ñồng ý, bèn ñem quần áo mỗi cái cắt làm hai, lại ñem nồi, niêu, bình, chén, bát và tất cả các ñồ ñạc như: bàn, ghế, chiếu, giường, bất luận thứ gì cũng ñều chia làm hai phần cả, thậm chí tiền bạc cũng chặt làm ñôi. Làm cho tất cả ñồ ñạc, tiền của trong nhà
trở thành ñồ bỏ.
** Chuyện nầy
tỉ
dụ: Nghĩa lý
và pháp môn tu hành trong Phật pháp ñều là ñể cởi
mở
sự buộc ràng. Ðối cơ thuyết pháp ñều có cơ nghi và nguyên tắc, có môn bình
ñẳng, có môn sai biệt, ñều là tuy nghi vận dụng cho hợp thời. Không phải như những kẻ ngoại ñạo ngu si, cho chỗ ức kiến của mình là phải, chấp nhặt một pháp cho là
hoàn toàn. Kết quả, chánh pháp rất hoàn hảo mà vào tay bọn họ liền bị hủy
hoại trộn pha trở thành tà pháp vô ích. Do ñó, người tu hành không nên tin theo ngoại ñạo tà sư, hủy bỏ chánh hạnh, chê
bai chánh pháp, mà phải ñắc tội vô cùng lớn lao.
59. Xem làm bình
Thuở xưa, có hai người cùng ñi hội nghị, ñi giữa ñường thấy người thợ ñồ sứ ñang làm bình sành, làm rất khéo, hai người bèn ñứng lại xem. Sau ñó, một trong hai người biết mình xem ñã lâu, lật ñật ñi ñến hội nghị cho kịp giờ. Trong cuộc hội nghị có ñãi một bữa
tiệc trọng ñại và
tặng phẩm vật quí giá
vô
cùng.
Còn người kia cứ ñứng yên xem
làm bình và tự nghĩ: "Ta xem làm
xong một cái
bình rồi hãy ñi".
Nhưng thợ ñồ sứ làm xong cái nọ lại làm tiếp cái kia, người
kia cứ
ñứng xem từng cái một cho ñến chiều tối
mà
vẫn còn ở ñó xem, không ñi hội nghị ñược, bụng lại ñói như cào, rốt cuộc không ñược việc gì cả.
** Chuyện nầy tỉ dụ:
Thế
nhân thường bị việc ñời ràng buộc luống qua ngày giờ
quý báu của kiếp người. Ðối với vấn ñề
giải thoát sanh tử và chứng ngộ Phật thừa,
không chịu siêng năng tinh tấn lý hội tu học, cứ dần dà qua ngày, ñành chịu trầm luân nơi bế khổ! Vì thế Phật tử cần phải giác ngộ cuộc ñời là vô thường, thời giờ quý báu, cố gắng tấn tu Phật pháp cho kịp thời.
60. Thấy vàng dưới nước
Thuở xưa, có một người chạy ñến bờ ao, xem thấy dưới ñáy ao có miếng vàng lấp lánh, bèn lội xuống nước ñể tìm vàng, mò tìm mãi không có mà thân thể mõi mệt vô cùng. Y lên bờ ngồi nghỉ. Một hồi nước ñứng lặng trong, y dòm xuống nước lại thấy
vàng lấp lánh. Y bèn lội xuống nước tìm lại, tìm mãi khắp ao mà vẫn không có chi.
Bấy
giờ y lên bờ ngồi trở
lại, nhìn xuống ao với một vẻ thèm thuồng.
Sau ñó, người cha ñi tìm thấy y ñang ngồi nơi ñây, với
vẻ
mặt ngơ ngát bơ phờ, ông hỏi y ñang làm gì ñó. Y trả lời:
- Con thấy có vàng dưới nước, con xuống tìm ñã hai lần nhưng không có, chỉ toàn
là bùn. Giờ ñây thân con mỏi mệt quá không thể
chịu ñược.
Người cha ñến bờ ao dòm xuống nước xem thử, mới biết rõ ñó là cái bóng của
miếng vàng, còn miếng vàng nhất ñịnh phải ở trên cây gần ñây.
Ông bảo con:
- Con leo lên cây tìm vàng thử! Người con không hiểu, hỏi cha
rằng:
- Rõ ràng ở dưới nước, tại sao lại tìm trên cây? Người cha
nói:
- Trong nước chỉ có cái bóng vàng, còn vàng nhất ñịnh ở trên cây mới phải. Con lên cây tìm ñi, có lẽ do chim ngậm, lại ñể
trên ấy.
Y nghe lời cha leo lên cây tìm kiếm, quả nhiên có một miếng vàng mắc trên ñó.
** Chuyện
nầy tỉ dụ: Chúng phàm phu ñều ở trong thế pháp hư vọng
nhưng vững bền, như hoa trong gương, trăng dưới nước, ñem kiến thức sai lầm cho là chơn thật.
Vọng chấp có ngã chơn thường còn, không
biết
trở
lại cầu nơi
bản tâm minh tính, cứ mãi theo cảnh trôi lăn, xoay vần trong biển khổ, bỏ gốc theo ngọn, uổng công, nhọc tinh thần mà không ích lợi chi cả.
--- o0o ---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét