Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2012

Giới Luật Phật Giáo Và Những Vấn Đề Xã Hội


Thích Ngộ An (Đặt bút)

 

Mục Lục:

 Chương I:    Dẫn nhập
Chương II:   Khái quát giới luật
2.1.   Ý nghĩa giới luật
2.2.   Nguyên nhân Đức Phật chế Giới
2.3.   Nguyên nhân hình thành Luật tông
2.4.   Đặc điểm của giới luật Phật giáo
Chương III: Những vấn đề giới luật
3.1.   Giới của người Phật tử tại gia gồm có những gì?
3.2.   Bồ tát giới là gì? Người nào có thể giữ giới đó?
3.3.   Giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa là gì?
3.4.   Tăng có 250 giới nhưng Ni phải thọ 348 giới. Tại sao Ni giới lãnh thọ nhiều vậy?
3.5.    Bát Khỉnh Pháp gồm những gì? Và tại sao đức Phật lại chế Bát Khỉnh Pháp?
3.6.   Giới tướng, giới tánh, giới hạnh, giới thể được hiểu như thế nào?
3.7. Trong luật học, Khai , Giá, Trì , Phạm được hiểu như thế nào?
3.8. Thế nào là danh chủng tánh tướng ?
3.9. Lợi ích của việc thọ lãnh giới luật là gì?
3.10. Tăng sĩ trẻ thời hiện đại và việc giữ gìn giới luật như thế nào?
Chương IV: Giới luật và những vấn đề thời đại
4.1. Giới Luật Phật giáo có thể làm gì cho đạo đức xã hội?
4.2. Sự đóng góp của giới luật đối với vấn đề môi trường
Chương V: Kết luận



Chương I: Dẫn nhập
1.1.            Lí do chọn đề tài:
       Ngày nay khi khoa học kỹ thuật phát triển, đời sống con người được nâng cao, xu hướng sống buông lung hưởng thụ vật chất phát triển mạnh mẽ, xã hội ngày càng rối ren, trật tự không còn được bảo đảm, những tệ nạn xã hội có mặt khắp nơi, đó là nói đến phạm vi của xã hội bên ngoài. Trong môi trường chung đó ảnh hưởng đó đã tiến gần đến tôn giáo, trong đó Phật giáo vẫn không thể nằm ngoài xu hướng đó, Tăng sĩ những người được cho là đại diện Như lai truyền bá Phật pháp lại không thể sống nguyên vẹn như lời đức Phật đã dạy, tư tưởng “Phật pháp bất li thế gian pháp” được hiểu như là một tư tưởng của bậc đại bồ tát, dấn thân vào cuộc đời để cứu độ chúng sanh, ngày nay lại được dùng thoải mái để luận biện cho việc làm của một số tăng ni trẻ, đó dường như là một cái cớ để biện luận, trong khi đạo lực chưa cao dẫn đến chưa độ nỗi người khác mà mình vô tình bị đời hóa lúc nào mà không hay biết.
     Trong kinh Di Giáo đức Phật nói “Tỳ ni tạng trụ, Phật pháp cữu trụ”. Tỳ ni nghĩa là luật. Giới luật mà còn thì Phật pháp mới còn. Ở bất cứ một quốc gia nào, mà người giữ giới luật nghiêm minh, thì quốc gia ấy hưng thịnh, cũng vậy thời nào mà Tăng sĩ giữ gìn giới luật thì nơi đó Phật pháp rất thạnh hành. Chúng ta hãy đi ngược dòng lịch sử Phật giáo, ta thấy thời nào mà chư Tăng, Ni, Phật tử nghiêm trì giới luật thì thời đó Phật giáo xương minh, hàm sinh lợi lạc. Cũng có những thời kỳ hàng Phật tử thất chúng của Phật gìn giữ giới luật yếu kém, kết quả sự tu trì và phát triển đạo đã suy thoái. Cho nên có câu “Giới luật còn thì Phật pháp còn” hay “giới luật là mạng mạch của Phật pháp”. Giới luật là chơn tinh thần của Phật pháp. Giữ đúng giới luật là để tâm chúng ta được thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh mới đạt được đạo quả, mới thành Phật được. Nếu tâm ta không thanh tịnh, cứ tạp loạn, vọng tưởng, điên đảo thì đạo còn xa vời lắm. Do đó, trong hàng tu tập thất chúng đệ tử Phật, muốn giữ gìn giới pháp cho đúng thì trước hết chính bản thân mình thăng tiến, rồi ra ngoài truyền bá Phật pháp, cũng nhờ thân tâm thanh tịnh đó mà sự hành đạo của chúng ta vững vàng, kết quả khả quan. Vì vậy, chúng ta phải học giới luật cho kỹ, cho chuyên, hành giới luật cho nghiêm, cho chánh. Mới mong làm cho đạo pháp hưng thịnh và lợi lạc cho bản thân lẫn tha nhân.

1.2.           Lịch sử nghiên cứu đề tài:
          Đề tài giới luật tuy đã có nhiều nhà nghiên cứu như “Giới Luật Cương yếu” của HT. Thích Thiện Siêu, “Theo dấu chân xưa” của HT. Thích Minh Thông, “Giới Luật Học cương yếu” của HT. Thích Thánh Nghiêm, “Trùng trị Tỳ ni sự nghĩa tập yếu” của HT. Thích Đổng Minh, “Một Số vấn đề giới luật” của HT. Thích Phước Sơn…vv. cũng như các vị tăng ni sinh đã nghiên cứu , thế nhưng người viết xin có một hướng đi mới, đống góp mới của riêng mình, nhằm tạo thêm chút sức lực trong việc xác định lại tầm quan trọng của Giới Luật đối với hàng tu sĩ xuất gia trong Phật giáo chúng ta.
1.3.            Phương pháp nghiên cứu đề tài:
        Để có hướng đi mới người viết xin trình bày bài nghiên cứu theo phương pháp giải thích vấn đáp. Có nghĩa là theo phương pháp này người đọc sẽ được giải quyết những vấn đề về Giới luật Phật giáo mà theo người viết có lẽ nó sẽ là một bài viết có tính chất chia sẽ kiến thức từ kinh điển cũng như những bài dạy mà khi xưa đấng Thế Tôn đã dạy cho đệ tử của mình.
1.4.           Đề tài và những giả định:
Đề tài “Những vấn đề giới luật” xoay quanh những câu hỏi được đặt ra liên quan đến việc khởi nguồn sự ra đời của tạng Luật cũng như giải thích những câu hỏi vì sao Tỳ Kheo Tăng chỉ giữ 250 giới, mà Tỳ Kheo Ni 348 giới và liên tục những câu hỏi về Phật tử tại gia và những giá trị lợi ích của việc gìn giữ giới pháp cũng như vai trò của giới luật đối với đạo đức xã hội và môi trường trong thời hiện đại.
1.5.            Giới hạn của đề tài:
Bài nghiên cứu này người viết chỉ nghiên cứu một cách khái quát những khía cạnh cơ bản của giới luật đặt trên nền tảng của người Phật tử đi theo con đường giải thoát mà bậc đạo sư đã chỉ dạy, bên cạnh những vẫn đề mang yếu tố khái niệm thì còn có những ví dụ cụ thể giúp cho người đọc có một cảm nhận dễ hiểu nhất. Mong sao qua bài viết giá trị của giới luật sẽ được những người con Phật chú ý và hành trì một cách miên mật hơn, tránh đi quá xa những gì mà chư Phật chư tổ đã dạy.


Chương II: Khái quát giới luật
      2.1.   Ý nghĩa giới luật là gì?
            a) Giới là gì?
       Giới tức là những điều đức Phật răn cấm, khuyên giữ gìn đừng nên trái phạm, để cho thân tâm thanh tịnh. Giới là hàng rào, là bờ đê, là thành quách ngăn giữ bọn quân phi pháp làm cho ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh là nơi an trú của tất cả các pháp lành là nơi phân định của hành vi thiện và ác là kỷ cương của Phật pháp là mạng sống của tăng già. Vì vậy giới có ý nghĩa rất thù thắng.[1]
     Giới tiếng Phạn là Si la, phiên âm thành Thi La. Trung Hoa dịch là Thanh Lương nghĩa là mát mẻ do công năng của giới ngăn ngừa sự thiêu đốt của 3 nghiệp.
Thi La nghĩa là mát mẻ ý nói điều ác dễ khiến thân tâm nóng bức còn giới có thể làm thân tâm an nghĩ nên gọi là mát mẻ.[2]
     Lại có một định nghĩa khác nữa Thi La là cái đầu, cái đầu thì có thể thấy sắc, nghe thinh, ngửi mùi, nếm vị, biết xúc hiểu pháp,. Người giữ giới có thể thấy sắc của bốn chân lý, nghe ý nghĩa chưa từng nghe, ngửi hương vị 37 giác phần, thưởng thức vị tịch tịnh của hạnh xuất gia, hạnh viễn li, vị chánh giác, biết các xúc tịnh lự, giải thoát, đẳng trì đẳng trí, biết tướng chung và tướng riêng của pháp uẩn, xứ, giới. cho nên Thi La là cái đầu.[3]
     Giới theo luận sư Buddhaghosa định nghĩa kết hợp. Kết hợp có hai nghĩa: Một là phối hợp(samadhana) chỉ sự không bất nhất trong ba nghiệp thân khẩu ý nhờ đức hạnh. Hai là nâng lên(updhasana) nghĩa là nền tảng vì giới là nền tảng của các thiện pháp.[4]
          b) Luật là gì?
      Luật là luật pháp, luật nghi tiếng Phạn là Vinaya, phiên âm là Tỳ Nại Da, Trung Hoa dịch là điều phục, vì có thể dứt nghiệp quấy ác của thân khẩu ý, đoạn trừ phiền não tham sân si và nhờ giới này mà được quả tịch diệt Niết Bàn. Trong kinh Giới Nhân Duyên nói: “Chữ “Tỳ” ngôn ngữ nhà Tần gọi là khử , “Nại Da” gọi là chơn nghĩa là loại bỏ bao nhiêu cái sai quấy để còn lại cái chơn cho nên gọi là chơn. Hàng phục tâm này chấm dứt tâm này đừng cho bất nhất tâm phát khởi nên gọi là chơn. Hàng phục là Giới, chấm dứt là Định, nhẫn là Tuệ[5]
       Giới Luật còn được gọi là Ba La Đề Mộc Xoa, phiên âm từ Patimokka. Gồm tiếp đầu ngữ Pati, có nghĩa hướng về, theo chiều hướng, và mokkha có nghĩa là giải thoát. Theo đó Patimokkha là giải thoát, biệt giải thoát, biệt biệt giải thoát, tùy thuận giải thoát đều là gốc của từ mokkha và diễn thêm nghĩa theo nghĩa toàn bộ của Patimokkha. Ta có thể hiểu Patimokkha là những hành vi, giới hạnh, những học pháp đưa đến sự giải thoát.[6]
       Tỳ Ni Man kinh quyển 3 nói: “Ba La Đề Mộc Xoa là tối thắng vì giới là căn bản phát sanh mọi điều lành. Lại giới có hai loại: thế gian và xuất thế. Giới thế gian có thể làm nhân cho xuất thế nên gọi là tối thắng. Lại có giới căn cứ thân miệng và giới căn cứ nơi tâm. Do giới thân miệng mà đạt được giới nơi tâm nên nói đứng đầu là Ba La Đề Mộc Xoa”.[7]
2.2.    Nguyên nhân nào đức Phật chế giới?
         Phật giáo 12 năm đầu hình thành toàn là những thánh tăng căn cơ cao, có khát vọng giải thoát lớn, trình độ tu tập thuần thục nên chỉ cần nghe Thế Tôn khai thị một vài lần là chứng quả. Vì vậy nếp sống của chư tăng lúc ấy hoàn toàn thanh tịnh bấy giờ Thế Tôn không chế giới luật mà giới chỉ được trình bày dưới hình thức đơn giản, tổng quát nhất là dưới hình thức hộ trì các căn “ khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến cho các căn không được chế ngự khiến cho tham ái ưu bi các bất thiện pháp khởi lên vị ấy liền chế ngự nguyên nhân ấy, sống hộ trì các căn, thực hành sự hộ trì các căn”.[8]
      Đến năm thứ 13 (sau khi đức Phật thành đạo) thì xuất hiện sự việc tôn giả Tu Đề Na(Sidinna) con trai của thôn trưởng Ca Lan Đà, do yêu cầu của mẹ phải để lại đứa con để nối dõi tông đường nên tôn giả đã hành dâm với vợ củ. Sau sự việc đó tôn giả bị lương tâm cắn rứt cảm thấy xấu hổ trước những tỳ kheo thanh tịnh nên thú nhận với chư tăng ,chư tăng bạch Phật và chế ra giới. [9]
     Một lần nữa có vị Tỳ Kheo sống trong rừng, bị thiên ma nhiễu loạn nên đã hành dâm với con vượn cái, nghĩ rằng giới luật Thế Tôn chế không nói trường hợp cùng với súc sanh nên thêm lần nữa Thế Tôn chế giới “Tỳ kheo nào đã thọ trì học xứ và chấp nhận đời sống của Tỳ Kheo chưa hoàn giới, giới sút kém nhưng không phát lộ, hành dâm dục cho đến cùng với loài súc sanh Tỳ Kheo ấy là kẻ Ba La di, không được sống chung”.[10] Từ đó giới Luật được chế đặt nhiều hơn tùy theo những lỗi lầm ảnh hưởng đến con đường giải thoát.
2.3.    Sự hình thành của Luật tông
        Ðức Phật khi còn tại thế, tùy căn cơ, tùy hòan cảnh mà chế ra nhiều lọai giới luật để răn dạy đệ tử, hóa độ chúng sinh. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, các đệ tử của Ngài,như Ngài Ưu-Ba-Li là vị tinh thông về giới luật đứng trên pháp tòa trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, đã tụng đọc lại những giới luật mà Ðức Phật đã chế ra. Lần kết tập này chưa biên chép thành kinh điển, nên Ngài Ưu-Ba-Li phải đọc đi đọc lại đến 80 lần, đến nỗi mỗi người trong hội đều thuộc lòng. Do đó, mới có tên là"Bát thập tụng luật ". Về sau,tuần tự theo thời gian, nguyên thủy Phật giáo lần hồi chia ra làm nhiều nhánh, hay bộ phái. Mỗi bộ phái đều theo một bộ lụât riêng. Trong số các bộ luật này, bộ được nói đến và áp dụng nhiều nhất là các bộ: Thập tụng, Tứ phần, Tăng kỳ, Ngũ phần.
     Những bộ luật này được truyền sang Trung Hoa và được phiên dịch ra Hán văn. Ðến đời Ðường, Ngài Trí Thủ luật sư chú giải các bộ ấy, và đệ tử của Ngài là Ðạo Tuyên luật sư, nhận thấy trong các bộ ấy,bộ luật Tứ phần là thích hợp căn cơ người Trung Hoa, nên đã căn cứ vào luật này để lập ra Luật tôn.Ngài Ðạo Tuyên là người ở Chung nam sơn, nên người đời gọi tôn này là " Chung nam sơn" để phân biệt với các Luật tôn khác, như của các Ngài Pháp Lệ bên phái Hữu tướng bộ, hay Ngài Hoài Tố ở Ðông pháp.
    Trong các Tôn này, chỉ có Luật tôn của Ngài Chung nam sơn là thịnh hành hơn hết và được truyền bá cho đến bây giờ, vì nó trung hòa cả Ðại Thưà lẫn Tiểu Thừa. [11] Việt Nam luật tông đã được thịnh hành từ những thế kỷ IV và thứ V đại diện đó là ngài Đạo Thiền với bộ luật Thập Tụng từng xiển dương luật tông tại Việt Nam và hoằng hóa sang Trung Hoa.

2.4. Đặc điểm của giới luật Phật giáo
        Trước tiên và trên hết giới luật Phật giáo được đặt nền tảng trên trí tuệ, tự do tư tưởng, tự do tra vấn và luật nhân quả. Không giáo điều, không ép buộc, không đe dọa, không bắt tin theo một cách mù quáng. Phật giáo lấy Từ (metta), Bi (karuna), Bất hại (ahimsa - không tổn hại) và Nhẫn (khanti) để nuôi dưỡng đạo đức. Những mối quan hệ qua lại như chồng và vợ, cha mẹ và con cái, anh chị em, bạn bè, người thân, thầy và trò, chủ và người làm, tu sĩ và cư sĩ được nêu rõ.
        Điều được khuyến khích trong việc dạy dỗ của Phật giáo là không bóp méo hay linh động để thích ứng với sự xấu ác. Giết hại là một hành động bất thiện (akusala kamma), dù được nhân danh tôn giáo hay tổ quốc. Chế tạo và bán vũ khí không thể được coi là chính đáng dù nó đem đến lợi tức lớn lao cho quốc gia như Hoa kỳ và nước Anh. Không ai có thể tha lỗi và xá tội cho những hành động tàn ác của một người dù người đó cầu nguyện bao nhiêu đi nữa. Có một số tôn giáo nghĩ như vậy. Hành động tốt sẽ đem đến kết quả tốt và hành động xấu sẽ đem đến kết quả xấu, cho dù người đó là vua hay người cùng đinh.     Cũng theo Phật giáo, dạy lối sống đạo đức bằng việc nêu gương được coi là cách dạy tốt nhất. Đức Phật là một điển hình. Đó là một nền đạo đức thực tiễn giúp con người cư xử một cách hài hòa và công bằng với mọi người.                    
       Con người được rèn luyện để cảm thấy có trách nhiệm và giá trị trong những việc làm của mình. Đạo đức Phật giáo hình thành những tiêu chuẩn và nguyên tắc về cách cư xử tốt thể hiện trong lời nói và hành động theo con đường chân chánh và tự chủ. Những đức tính nầy phát triển từ sự tự giác, không từ sự sợ hãi hay hình phạt. Chúng hướng dẫn chúng ta cách làm người, thực hiện những điều tốt và tránh xa những điều xấu.          
       Đạo đức Phật giáo (Giới) đi cùng với định và tuệ – giới, định, tuệ. Trí tuệ ở đây không phải chỉ là sự thông thái. Nếu chỉ có thông thái mà không có trí tuệ, sự thông thái có thể trở thành một hiểm họa.     
       Sống một đời sống tích cực và tốt đẹp trên thế gian theo những hướng dẫn của đạo Phật sẽ đem đến hạnh phúc, bình an và niềm vui cho mình và cho người. Đời sống đó thật sự có giá trị hơn nhiều so với đời sống bon chen để thỏa mãn bản ngã và lòng tham. Đời sống đó cũng thiết lập một hợp đồng bảo hiểm cho tương lai sau khi chết. Nếu chúng ta có thể nói một cách thành thật và nghiêm túc cho nhau rằng anh hay chị là một phúc lành cho chúng tôi, chúng ta là những hành giả trên con đường đạo đức Phật giáo, đang đi trên con đường Tám Chánh Đạo. Một bộ luật cho đời sống đạo đức được thử nghiệm qua thời gian, hợp lý, thực tiễn là cần yếu cho mọi người, giống như người lái xe cần hiểu biết và tuân hành luật lệ đi đường. Lời dạy của đức Phật cho chúng ta một bộ luật như vậy nếu chúng ta chấp nhận và sống theo.
Chương III: Những vấn đề giới luật
3.1.    Giới của người Phật tử tại gia gồm có những gì?
        Một cư sĩ tại gia sau khi tìm hiểu và tin tưởng vào Thế Tôn và pháp môn của ngài sẽ lãnh thọ 3 pháp quy y và phát nguyện thọ trì năm giới căn bản: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
       Năm giới trên chính là nền tảng đạo đức của người Phật tử khi bước chân trên con đường giác ngộ giải thoát. Chỉ trong năm giới thôi nếu cá nhân giữ gìn thì ngay trong hiện tại tránh được khổ đau giữ được tư cách của một con người sau khi chết khỏi bị đọa vào địa ngục, nếu gia đình nào giữ được thì gia đình đó có hạnh phúc, trên thuận dưới hòa, nếu xã hội ứng dụng sẽ là xã hội văn minh chan hòa sự cảm thông chia sẽ thương yêu. Ngoài ra nếu Phật tử quy y Phật, Pháp, Tăng thì sẽ có hai lợi ích: thứ nhất khỏi đi lạc đường đời vào nơi tối tăm. Thứ hai khi phát nguyện quy y mình dễ giữ đúng lời hứa, vì có sự chứng minh của chư Phật và chúng tăng.[12]
     Lại nữa không chỉ có ngũ giới mà đức Phật còn ưu tiên cho hàng Phật tử tại gia Bát Quan Trai giới, là một phép tu một ngày một đêm (24 giờ) gồm có 8 giới (không sát sanh, không nói dối, không tà dâm, không trộm cắp, không được trang điểm xoa ướp dầu thơm vào mình hay ca hát hoặc xem múa hát, không nằm giường cao rộng, không ăn quá giờ ngọ). Chữ “Quan” là cửa ngăn chận tám điều tội lỗi. Chữ “Trai”, tiếng Phạn là Posadha, nghĩa là khi đã qua giờ ngọ(12 giờ) không được ăn nữa.[13] ngoài ra đối với những vị Phật tử tại gia phát tâm tu trì giải thoát thì ngoài hai giới trên đức Phật còn chế ra Giới Bồ Tát để sự giải thoát được phổ hóa cho tất cả chúng sanh.
3.2.    Bồ tát giới là gì? Người nào có thể giữ giới đó?
       Bồ Tát giới là giới Khi đức Phật nói pháp đại thừa, đức Phật mới chế thêm một giới nữa gọi là ’Đạo tục thông hành’ cả xuất gia và tại gia đều chung giữ một giới.
      Bồ Tát  dịch nghĩa từ chữ Buddhisattva. Buddhi: giác ngộ; Sattava: hữu tình, chúng sanh. Tức một chúng sanh có thể giác ngộ thành Phật. Trong kinh Phạm Võng nói “ Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tính, nhữ thị đương thành Phật, ngã thị dĩ thành Phật, thường tác như thị tín, giới phẩm dĩ cụ túc” có nghĩa là tất cả chúng sanh đều có Phật tính ta là Phật đã thành các ngươi là Phật sẽ thành ai mà tin điều đó thì giới phẩm đã thành tựu rồi.[14] Bồ tát giới có mười giới trọng và 48 giới khinh. Tại sao Phật lại cho thọ giới chung như vậy, bất kể giai cấp như vua quan, thứ dân, tăng ni cho đến quỷ thần đều được thọ hết ? Vì giới Bồ Tát chỉ có một mục đích là luôn luôn làm lợi ích cho chúng sanh, kêu là Tam tụ tịnh giới... Tam tụ tịnh giới gồm :
          o Nhiếp luật nghi pháp : Nghĩa là không có một việc xấu ác nào, dầu nhỏ cũng không dám làm.
          o Nhiếp thiện pháp giới : Không có một việc lành gì, dầu nhỏ cỡ nào cũng không bỏ qua.
          o Nhiêu ích hữu tình giới : Luôn canh cánh trong lòng bổn phận làm lợi ích cho chúng sanh. Tại sao ? Vì bồ tát hạnh phải coi chúng sanh như là mình, đồng thể đại bi, vì là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đã là Phật tánh thì sao ta có thể để cho Phật tánh đó bị đọa lạc luân hồi ? Do đó phải giúp chúng sanh biết được họ có Phật tánh để họ tu.
        Thọ Bồ Tát giới tại gia là phải ăn chay trường. Bởi vì ăn chay trường là không sát sanh. Ăn chay kỳ vẫn còn ăn thịt chúng sanh. Mà chúng sanh lại ăn thịt chúng sanh sao được. Ăn thịt một chúng sanh giống như ăn thịt một ông Phật vậy. Do đó, cầu thọ Bồ Tát giới là phải ăn chay trường, vị nào chưa ăn chay trường thì phải nguyện ăn chay từ ngày mình thọ giới Bồ Tát.[15]

3.3.    Giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa là gì?
      Giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa hay còn gọi là giới cụ túc, là giới của Tỳ Kheo Tỳ Kheo Ni. Giới cụ túc, tiếng Phạn là Upasampada. Hán dịch là cận viên. Ở Trung Hoa xưa người ta thường giải thích Cận Viên là sự gần gủi với Niết Bàn viên tịch và cho rằng sở dĩ được gọi như vậy vì cho rằng giới này có khả năng tiến gần đến niết bàn viên tịch giải thích như thế là do suy diễn từ chữ hán. Trong tiếng Phạn, nó không có nghĩa là viên tịch cả, chữ viên trong tiếng hán đó là viên mãn, do dịch chữ sampada của tiếng Phạn theo nghĩa đen, sampada của tiếng Phạn là cùng đến nơi tức chỉ cho sự thành công hay thành tựu. Chữ cận trong tiếng hán là do dịch chữ Upa, có nghĩa là gần gũi, hay ở trên do đó Upasampada theo nghĩa thường dùng nhất được hiểu là sự thành tựu trọn vẹn cũng có khi được hiểu là bước lên chỗ cao.[16]
      Giới cụ túc gồm có 250 giới trong đó có (bốn ba la di, mười ba pháp tăng già bà thi sa, hai pháp bất định,ba mươi pháp ni tát kỳ ba dật đề, chín mươi pháp ba dật đề, bốn pháp ba la đề đề xá ni, một trăm pháp chúng học, bảy pháp diệt tránh) đó là phần giới của Tăng tỳ kheo, Ni giới cũng tương tự nhưng những điều khoản có nhiều hơn.[17]
3.4.    Tăng có 250 giới nhưng Ni phải thọ 348 giới. Tại sao Ni giới lãnh thọ nhiều vậy
       Chúng ta nên biết, đức Phật là bậc nhất thiết chủng trí, trí tuệ của ngài thông suốt tất cả. Ngài biết căn tánh của nam, nữ ra sao. Sự hiểu biết của ngài đúng với chơn lý, hợp với sự thật. Tánh của nữ giới có phần phiền toái, nhỏ hẹp hơn nam giới. Cho nên đức Phật mới chế thêm giới, thêm để mà giữ. Đây không phải là sự kỳ thị nam nữ. Lòng từ bi của đức Phật bao la rộng lớn, có khi nào lại bức hiếp Ni giới.
       Ngoài ra, đức Phật còn chế ra phép Bát Kỉnh Pháp>. Nhân vì bà Di Mẫu của Đức Phật xin xuất gia, bà có công nhiều với Đức Phật, bà đã nhiều lần thưa với Đức Phật nhưng Đức Phật không cho. Đức Phật nghĩ rằng nếu vì tình cảm hoàng tộc mà để phái nữ đi tu thì sợ Phật pháp trụ thế không lâu trên cõi đời này. Phật nói rằng chánh pháp của Phật kéo dài một ngàn năm, mà để cho phái nữ xuất gia thì chánh pháp chỉ còn lại 500 năm. Sau đó ngài A Nan cũng đã nhiều lần vào xin với đức Phật cho bá mẫu xuất gia thì Phật bằng lòng nhưng với điều kiện ni chúng phải giữ thêm <Bát Kỉnh Pháp>’.[18]
3.5. Bát Khỉnh Pháp gồm những gì? Và tại sao đức Phật lại chế Bát Khỉnh Pháp?
       Bát Khỉnh Pháp gồm có 8 điều đó là:
1-     Một Tỳ kheo ni, dầu có trăm tuổi hạ khi gặp thầy Tỳ kheo mới thọ giới cụ túc cũng phải chào hỏi, đảnh lễ và thực hành tất cả những bổn phận thích nghi đối với vị Tỳ kheo.
2-     Một Tỳ kheo ni không được khiển trách hay nặng lời đối với một vị Tỳ kheo trong bất kỳ trường hợp nào.
3-     Tỳ kheo ni không được ngăn Tỳ kheo xét tội, thuyết giới, tự tứ hay nói lỗi của Tỳ kheo. Trái lại, Tỳ kheo  được quyền cử tội Tỳ kheo ni.
4-     Muốn thọ trì cụ túc giới phải thông qua hai bộ Tăng: Tỳ kheo ni và Tỳ kheo.
5-     Nếu Tỳ kheo ni phạm tội hữu dư (Tăng-tàn) thì phải đến trước hai bộ Tăng thực hành pháp Ý hỷ (Ma-na-đỏa) trong thời gian nửa tháng.
6-     Nửa tháng phải đến bên Tỳ kheo Tăng cần cầu dạy bảo.
7-     Không được an cư kiết hạ ở địa phương nào không có Tỳ kheo ở.
8-     Khi an cư xong, phải đến Tỳ kheo Tăng cầu ba sự tự tứ : Thấy, nghe và nghi.
      Trước khi ban hành Bát Khỉnh Pháp đức Phật đã giải thích lý do “Này A Nan, ví như một người vì nghĩ đến tương lai xây dựng bờ đê cho một hồ nước lớn để nước không thể chảy qua. Cũng vậy, này A Nan vì nghĩ đến tương lai ta mới ban hành Bát Khỉnh Pháp này cho các tỳ kheo ni cho đến trọn đời, không được vượt qua.[19]
       Và Thế Tôn cũng giải thích vì sự có mặt của ni giới sẽ làm cho chánh pháp rút ngắn 500 năm nên Ngài mới ban hành Bát Khỉnh Pháp chứ không phải vì lý do phân biệt giới tính. Thế Tôn cũng xác nhận nữ giới cũng chứng quả như chư tăng nếu tu hành đúng theo lời Ngài dạy.
             3.6. Giới tướng, giới tánh, giới hạnh, giới thể được hiểu như thế nào?
      1. Giới tướng là những giới như không sát sanh, trộm cướp v.v... là những hình tướng, hành động ở bên ngoài trái với giới tánh.
       2. Giới tánh thì không có hình tướng, nó thuộc về những biến hành của tâm. Ví dụ như ý muốn sát hại một sinh vật, dù rằng không thực sự cầm dao hạ sát, ý sát hại chỉ có ở trong tâm mà thôi nhưng cũng phạm vào giới tánh.
       3. Giới hạnh là những hạnh đoan nghiêm của người xuất gia. Ngồi mà rung đùi, nhịp chân, nói cười vô độ v.v... là những hành động làm mất đi giới hạnh của người xuất gia.
        4. Giới thể là mình đưa giới vào trong bản thể. Giới thể rất khó giải thích nếu không dùng ví dụ. Như khi truyền giới, giới sư hô : ’Giới thứ nhất không được sát sanh, quý vị có giữ được không ?’. Thì giới tử trả lời : ’Dạ, giữ được’. Ba tiếng ’Dạ, giữ được’ đi vào trong tâm thể của ta và sẽ không bao giờ mất, dù ta có chết cái thân này mấy chục lần đi nữa. Cho nên, thọ giới phải cho đúng cách, để lỡ kiếp này tu chưa đắc quả thì kiếp sau nhớ tiếp mà tu. Khi chúng ta đã thọ giới rồi, mà có ý sát sanh, ví dụ như bị muỗi cắn đau quá, ý muốn đánh vào chỗ bị cắn đau để giết chết con muỗi ác ôn đó, nhưng mà nghĩ tới lời hứa ’Dạ, con giữ được’, tức là không sát sanh, lập tức ý tưởng đó bị tiêu diệt ngay. Nhiều lúc chúng ta đã giơ tay lên rồi, nhưng mà giới thể đó ngăn ta lại không cho ta tạo nghiệp sát. Đó là giới thể. Nếu không có giới thể thì cánh tay hạ xuống là giết đi một chúng sanh, dù đó chỉ là một con muỗi. Dù chúng ta có phạm giới, nhưng giới thể vẫn không bao giờ mất. Vì vậy khi thọ giới phải nói cho rõ ràng để đắc giới thể.
3.7. Trong luật học, Khai , Giá, Trì , Phạm được hiểu như thế nào?
Khai là mở, cho làm.[20]
Giá là cấm, không cho làm.[21]
Như khi Phật còn tại thế, Ngài cấm các vị Tỳ Kheo leo lên cây, đó là ''Giá". Nhưng về sau có vị Tỳ Kheo đi vào rừng, bị ác thú rượt, Ngài không dám leo lên cây để tránh, vì sợ phạm giới, và cuối cùng bị ác thú hại. Từ đó, Phật dạy: ''nếu có duyên sự thì được leo cây'', như thế gọi là ''Khai''.[22]
Người Phật tử phải giữ giới không uống rượu. Ðó là ''Giá''. Nhưng khi bị bịnh nặng, nếu cần rượu để hòa với thuốc, uống mới lành bệnh, thì tạm được dùng. Ðó là ''Khai''. Nhưng trước khi uống, phải bạch với chư tăng.[23]
Trì là giữ gìn; như khi đã thọ giới rồi mà giữ gìn cho được thanh tịnh thì gọi là ''Trì''.[24]
Phạm là vi phạm; như đã thọ giới rồi mà không giữ gìn giới thì gọi là ''Phạm''.[25]
 Ví dụ như giới nói láo, giới uống rượu. Nhưng có những giới tuyệt đối giữ gìn, không thể khai cho được như giới sát sanh. Thành ra chúng ta phải biết thế nào là khai, giá, trì và phạm. Có những giới ta trì lại phạm. Thí dụ như khi thọ giới đại thừa, ta phát nguyện cứu độ tất cả chúng sanh. Còn giới nguyên thủy cũng cứu độ chúng sanh vậy nhưng mà cấm việc xúc chạm giữa nam, nữ. Nếu như có người nữ đương chết đuối dưới sông, mình là người biết lội, cứu được, nếu ta thọ giới nguyên thủy thì ta không dám nhảy xuống vớt đâu, vì động tới thân người nữ là phạm giới. Cho nên trì mà phạm. Còn nếu dùng giới đại thừa thì cứ việc xuống cứu cho người ta khỏi chết, không nghĩ chuyện nam, nữ, tăng hay tục. Chỉ nghĩ cứu mạng sống thôi. Cho nên phạm mà trì. Do đó chúng ta phải học luật để biết trường hợp nào khai, trường hợp nào giá v.v... biết để ứng dụng.[26]

3.8. Thế nào là danh chủng tánh tướng ?
       Danh là tên (danh từ) nghĩa là tên chỉ mỗi giới, như giới bất sát sinh, giới bất thâu đạo.v.v...[27]
Chủng là chủng loại, hay nhóm; như chúng ta đã thấy ở phần chia các giới của Tăng, Ni: Ba-la-di, Tăng tàng.v.v..[28]
Tánh là tâm tánh, là tánh chất ở bên trong; như người giữ giới, trong tâm niệm không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng.v.v.. hoặc thấy người phạm giới cũng không sanh tâm vui mừng hay liên tưởng đến. Giữ gìn tâm tánh ở bên trong được thanh tịnh như vậy, gọi là ''giới tánh''.[29]
Tướng là hình tướng ở bên ngoài; như bên trong đã không nghĩ đến sát sanh, trộm cướp (tánh giới) .v.v.. mà bên ngoài cũng không làm những điều ác ấy, gọi là ''giới tướng''.[30]
 Nói tóm lại mỗi giới có chủng loại riêng, ví dụ như giới vọng ngữ có bốn chủng loại là : Ỷ ngữ, vọng ngữ, ác ngữ và lưỡng thiệt. Riêng về tánh tướng, ta phải biết giới nào thuộc về tướng tội, giới nào thuộc về tánh tội. Ví dụ như mười giới của Sa di, bốn giới đầu là sát sanh, trộm cướp, dâm dục và nói dối thuộc về tánh tội. Vì từ nơi tánh của mình xuất phát ra mà gây tội. Còn từ giới uống rượu cho đến giới thứ mười là thuộc về tướng tội, bởi vì có cái tướng bên ngoài ta mới phạm. Ví dụ như rượu, ta uống vào mới say, không rượu lấy gì say.
3.9. Lợi ích của việc thọ lãnh giới luật là gì?
       Tất cả Giới luật đức Thế Tôn đều là những chuẩn mực đạo đức làm nền tảng cho sự giải thoát mọi khổ đau, cắt đứt mọi tham ái ràng buộc. Vì thế Giới luật đóng vai trò quan trọng trong việc tu tập giải thoát. Hành trì Giới luật là làm theo những lời đức Phật dạy, luôn luôn sống với sự chế ngự của Giới Bổn như Ngài từng khuyên cáo: “Này các Tỳ kheo, ta khuyến cáo các người hướng đến Sa môn hạnh, chớ có từ bỏ mục đích này, khi đang còn công việc phải làm hơn nữa? Thân mạng của chúng ta phải được thanh tịnh, phải hộ trì các căn, biết tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác…”[31] . Lại nữa, đức Thế Tôn dạy: “Nhơn Giới sanh Định, nhơn Định phát Tuệ”, muốn cầu được trí tuệ tất phải tu Thiền định và trước hết phải giữ gìn Giới luật. Nếu Giới Luật mà khuyết thì Thiền định sẽ khó thành. Thiền định không thành thì Trí tuệ cũng không do đâu mà phát sinh. Bởi thế, Tam vô lậu học là pháp môn căn bản của người học Phật, cũng như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một chân thì không thể đứng được. Cũng vậy trên đường đi đến giải thoát, nếu thiếu một trong ba yếu tố trên đạo quả sẽ khó thàh tựu được.
    Trong đời sống tu tập của mỗi hành giả, Giới luật được xem là thức ăn, nước uồng để bổ dưỡng cho pháp thân, Giới luật như tròng con mắt của chính mình hãy thận trọng giữ gìn, nên đức Thế Tôn luôn nhắc nhở rằng: “Giới luật là mạng mạch của Phật pháp, Giới luật còn là Phật pháp còn, Giới luật mất là Phật pháp mất”. Như trong kinh có câu:
Giới như đèn sáng lớn
Soi sáng đêm tăm tối
Giới như gương báu sáng
Chiếu rõ tất cả pháp”.
Giới luật trong đời sống hiện tại [32]
    Trải qua nhiều thời kỳ, có nhiều vấn đề được đưa ra bàn thảo, nhưng giới luật vẫn là tiền đề, vì sao vậy? Vì rằng: nó có thể đem lại sự hưng hay phế cho cộng đồng tăng chúng, quyết định cho sự tồn vong của Phật giáo. Vấn đề đặc ra không chỉ giải minh trên bình diện lý luận văn chương, mà thực sự chúng ta phải tư duy, xác quyết và trắc nghiệm thế nào để mỗi thành viên Tăng trong tự viện, tịnh xá, tĩnh thất… từng bước hoàn thiện nhân cách phẩm hạnh cho chính bản thân mình, nhằm đem lại đời sống an lạc hiện tại, giải thoát trong tương lai.
3.10. Tăng sĩ trẻ thời hiện đại và việc giữ gìn giới luật như thế nào?
    Là Tăng sĩ, việc “thượng cầu hạ hóa” đưa đạo vào đời là hoài bảo, song việc dụng tâm giữ gìn phạm hạnh không bị đồng hóa bởi thế tục là điều luôn luôn canh cánh bên lòng. Hai chữ “tùy duyên” được chúng ta thực hiện sao cho nó có ý nghĩa tích cực: “tùy thuận chúng sanh, dĩ văn tải đạo” đừng để nó bị biểu thị theo nghĩa “phan duyên trần cảnh, ô nhiễm thân tâm”.
    Tuy nhiên với một xã hội hiện đại hóa, văn minh và phát triển, thì chúng ta cũng dùng chút phương tiện giáo hóa thế gian, mới hòa nhập vào cuộc sống của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội một cách hợp lý và đầy trí tuệ.
    Nhưng với hình thức nào, phương tiện ra sao,căn bản của người xuất gia thì không thể phương tiện được, nói rõ hơn cái gì thuộc về giới tánh, giới thể cái đó không thể phương tiện được.
    Nhưng người xuất gia có quyền hòa nhập vào cuộc đời bởi vì “Phật pháp bất ly thế gian giác”. Nhưng không cho nó hòa hợp và hòa tan một cách dễ dàng, ta không nên phương tiện quá khiến mình trở nên thế tục hóa lúc nào không hay.
    Với người xuất gia trẻ thời nay có đầy đủ khả năng làm cho Phật pháp hưng thịnh và phát triển mạnh, song bên cạnh đó cũng không ít thành phần tham gia phá hoại làm cho Phật pháp ngày một giảm đi. Mặc dù Phật giáo chú trọng về tâm, về tánh không đặt nặng về tướng lắm, nhưng một con sâu làm rầu nồi canh, một đống phân nhỏ có thể làm ô uế căn nhà rộng, do đó ta không thể xem thường được.
    Nhiều người xuất gia trẻ thời bây giờ dễ rơi vào trường hợp này, nhưng họ không hề hay biết vì cho rằng phương tiện hóa. Ở đây chúng tôi không tiện nói rõ ra, nhưng hy vọng rằng họ sẽ tỉnh thức trong một mai, cho dù hành vi đó trong giới điều của Phật không có nhưng nó rất nguy hiểm cho Phật giáo chúng ta.
    Sống trong một cộng đồng, thường thường cái gì được cho là tốt đẹp thì tập trung phát triển mạnh, điều đó cũng xảy ra không ít phiền toái. Phật giáo đang phát triển trên khắp năm châu bốn bể, nhưng chúng ta đừng sớm hãnh diện và chủ quan mà phải nỗ lực, phấn đấu để bảo vệ Phật pháp ngày càng trong sáng và lành mạnh hơn, vì Phật giáo chúng ta là đạo trí tuệ, đạo bình đẳng, là đạo sống cho nhân loại, không để cho một vết nhơ mà nhòa cả trang giấy trắng.
    Trong kinh đức Phật dạy rằng: “tất cả các ma vương ngoại đạo, không ai có thể phá hoại được giáo pháp của ta, chỉ có đệ tử ta mới làm cho giáo pháp ta bị hủy diệt”. “Chỉ có trùng trong thân sư tử mới ăn được thịt sư tử mà thôi”.[33]

Chương IV: Giới Luật và những vấn đề thời đại
4.1.  Giới Luật Phật giáo có thể làm gì cho đạo đức xã hội?
        Trong thời đại ngày nay khoa học đã mang lại cho con người những ân huệ kỳ diệu nhưng bên cạnh đó cũng đã gây ra bao nhiêu tai họa khủng khiếp, bằng sức mạnh của vũ khí tối tân và sức quyến rũ của văn minh vật chất, khoa học đã làm cho đạo đức nhân phẩm của con người bị khinh rẻ, suy đồi, tha hóa đến mức trầm trọng, bên cạnh đó môi trường sống đang bị de dọa và hủy hoại bởi các phóng xạ hạt nhân, bởi bụi khói và các chất phế thải công nghiệp rồi chiến tranh tàn phá, bệnh tật hoành hành, nạn đói và thất nghiệp lan tràn khắp nơi. Tấc nhiên không thể phủ nhận sự tiến bộ của khoa học vì đó là điều cần thiết và tất yếu nhưng vấn đề quan trọng ở đây là phải ứng dụng làm sao để đem lại lợi ích hoàn toàn thiết thực cho con người. Và ở đây giới luật Phật giáo có thể song hành cùng khoa học thực hiện điều đó.
        Khoa học nếu được ứng dụng với mục đích vì hòa bình của nhân loại vì an vui hạnh phúc của tất cả chúng sanh thì có đâu chiến tranh có đâu con người chạy theo chủ nghĩa thực dụng để đánh mất lương tâm của mình. Đã đến lúc con người quay trở lại tìm lại diện mục đạo đức của mình. Và một nền đạo đức nhân bản thiết thực đem lại hạnh phúc hòa bình cho nhân loại không thể tìm kiếm đâu xa đó là đạo đức Phật giáo. Một nền đạo đức xây dựng trên nền tảng của giới luật mà Thế Tôn đã dạy cách đây 25 thế kỷ.
       Trong giới thứ nhất Thế Tôn dạy không sát sanh. Căn bản của giới này là không được giết người, kế đến là không được giết các loài chúng sanh khác. Đã là con người ai cũng tham sống sợ chết, nếu chúng ta quý trọng sinh mạng của mình thì theo lẽ công bằng thì phải tôn trọng mạng sống của người khác, vì thế không nên sát sanh.
        Trong kinh nói: “có 10 thứ nghiệp đưa đến quả báo sống lâu. 1. Không tự tay giết. 2. Không khuyên giết. 3. Không ưa thích giết. 4. không tán đồng việc sát sanh. 5. Cứu người bị tử hình. 6. Phóng sinh.7. Đem lại sự an tâm cho kẻ khác. 8. Thương cứu bệnh. 9. Bố thí thực phẩm. 10. Treo cờ đèn cúng Phật”.[34]
        Thế Tôn khuyên không nên sát sanh vì nghiệp nhân ấy đem đến quả khổ trong hiện tại cũng như trong tương lai. Người sát sanh thường bị người trí quở trách, thường lo sợ vì bị kẻ khác báo oán, khi chết bị đọa vào địa ngục.
        Hơn nữa dù không bị quả báo đi nữa cũng không nên cố đoạt mất mạng sống của người khác vì đó là việc làm bất thiện. Mạng sống của con người vốn dĩ thiêng liêng, nên người xưa thường khuyên “thương người như thể thương thân”. Tại sao phải thương người? vì lẽ ta thương chính ta, vì đó là vấn đề thuộc bản năng của con người, giữa con người thiên nhiên xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau không thể tách rời được. nếu trong một xã hội mà mọi người luôn ganh ghét thù hận nhau thì xã hội ấy có tồn tại hay không? Mà xã hội đã không tồn tại thì cá nhân tương quan với ai để hiện hữu?
       Ở đây lời dạy của Thế Tôn là để tôn trọng sự sống, nuôi dưỡng lòng từ sẽ giúp cho xã hội an bình hơn. Nhờ nuôi dưỡng lòng từ nên sân hận và bất mãn được chế ngự. Nhờ tu tập tâm bi nên không làm hại kẻ khác. Nhờ thực hành tâm hỷ nên không đố kỵ, ganh ghét trước thành công của kẻ khác và do tu tập tâm xả nên diệt trừ được căm thù oán hận.
      Trong tình hình hiện nay khi ngọn lửa của lòng tham phi nghĩa đang bừng bừng bốc cao, khi sự xung đột của các dân tộc diễn ra hàng ngày thì nhu cầu đạo đức trên đây có ý nghĩa vô cùng to lớn.
       Giới thứ hai Phật cấm không được trộm cắp, nghĩa là không được lấy bất cứ vật gì của người khác mà không có sự đồng ý. Giới luật của Phật giáo cũng như của thế gian nếu trộm cắp thì sẽ bị xử phạt tùy theo mức độ nặng nhẹ.
       Trong kinh nói: “Nghiệp trộm cắp có ba quả báo là địa ngục ngạ quỷ và súc sanh. Nếu sinh làm người thì nghèo khổ, có tài sản cũng bị trôi, cháy cướp hoặc bị tịch thu, không được an vui.”[35]
      Tâm lý trộm cắp do tham đứng đầu, cũng có khi vì sân ganh ghét hoặc lợi dưỡng của kẻ khác nên tìm mọi cách làm cho họ bị tổn hoại. vì sân và ganh ghét mà trộm cắp cũng thành thói quen lấy vật dụng của người khác, đó là hạnh si. Như vậy chỉ trong một giới đầy đủ cả ba độc nên muốn đề phòng phạm lỗi này, trước tiên phải điều phục tâm ý, hiểu rõ lý nhân quả để không làm các hành vi tội lỗi chướng ngại đạo pháp.
      Người giữ được giới này bản thân không có tù tội, không lo âu sợ hãi, không bị người đời khinh chê. Tha nhân nhờ việc giữ giới của mình nên không sầu muộn đau khổ vì bị mất cắp. Xã hội nhờ giữ giới này nên không còn tình trạng tham ô, móc ngoặc không còn hiện tượng cướp giựt xảy ra hàng ngày.
       Cuộc sống của con người là mong cầu hạnh phúc. Nhưng một niềm hạnh phúc chân chánh thì không thể xây dựng trên sự đau khổ của người khác. Hạnh phúc và đau khổ của mình và tha nhân gắn bó quyện chặt lấy nhau không tách rời. Hạnh phúc ấy phải là kết quả của sự lao tâm khổ trí, của mồ hôi nước mắt của mỗi người chứ không phải lợi dụng hay bóc lột sức lao động, cướp giựt tài sản của người khác. Do vậy đã là con người chúng ta phải thuần dưỡng cho mình một nếp sống đạo đức nghĩa là phải từ bỏ ý nghĩ sai lầm và nguy hiểm rằng ta có thể sống giàu sang trên sự khốn khổ của kẻ khác.
       Trong giới thứ ba Thế Tôn cấm không được tà dâm, nghĩa là không được quan hệ bất chính với vợ hay chồng của người khác. Trong kinh nói: “người xâm phạm vợ con kẻ khác chết đọa địa ngục. đàn ông ôm cột đồng nóng, đàn bà nằm giường sắt nóng. Hết địa ngục sinh lại làm gà vịt”.[36]
       Dâm dục là hầm lửa, hầm lửa là địa ngục. Đọa ba đường dữ cũng đều do dâm dục mà ra nên Thế Tôn đã dùng nhiều thí dụ để nêu rõ sự tác hại của dục vui ít khổ nhiều. Dục là miếng xương là khúc thịt… là bó đuốc cháy ngược gió để khuyên tỳ kheo sống lành mạnh và biết đủ.
       Nếu giữ được giới này không những gia đình được hạnh phúc, vợ chồng hòa thuận, con cái hiếu thảo, không lo sợ tình địch hãm hại, không bị người đời khinh chê mà gia đình của người khác cũng được an vui, không bị xáo trộn do các cuộc đổ vỡ tình cảm gây ra và cũng nhờ đó mà xã hội được ổn định.
       Thế giới hiện nay đang lan tràn căn bệnh khủng khiếp gọi là Sida cũng do hậu quả của buông thả chạy theo dục vọng thấp hèn gây ra. Trước thực trạng báo động đó có nên không áp dụng lời Phật dạy để tự thân được hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho người khác? ở đây hỏi tức là đáp vậy.
        Trong giới thứ tư Phật dạy không được nói dối vì sẽ bị 10 quả báo như luận nói: “1. Miệng hôi; 2. Thiện thần xa lánh, ma quỷ dễ hại; 3. Dù có nói thật người ta cũng không tin; 4. Thường không được tham luận với người trí; 5. Thường bị phỉ báng; 6. Không được khính trọng nói không ai theo; 7. Thường nhiều lo buồn; 8. Làm nhân cho sự phỉ báng; 9. Mạng chung đọa địa ngục; 10. Sinh làm người thường bị chê bai”.[37]
       Trái lại người giữ giới này sẽ không bị người khác nghi ngờ, không bị khinh chê, và giữ được tánh tình trung thực. Tha nhân và xã hội nhờ đó không bị lường gạt, mê hoặc, bớt đi những hận thù chiến tranh.
       Trong kinh Giáo giới La Hầu La kể chuyện tôn giả vì xuất gia còn nhỏ tuổi nên thích đùa nghịch và một trong những thú tiêu khiển của tôn giả là thích nói dối. khi lời đồn đến tai Thế Tôn, Ngài đã gọi tôn giả lên quở trách và khuyên trước khi làm một khẩu nghiệp gì phải phản tỉnh nhiều lần xem khẩu nghiệp đó có đem đến tự hại, hại người, có đem đến đau khổ và quả báo đau khổ không, nếu có thì nên từ bỏ.  Nhưng nếu khi phản tỉnh thấy thiện đem đến an lạc cho mình cho người thì nên làm.
       Thế tôn ví người nói dối có ý thức không biết tàm quý cũng như con voi lâm trận không biết bảo vệ cái vòi và ngài khuyên tôn giả không nên nói dối dầu chỉ nói mà chơi.
Từ giới này liên hệ đến xã hội để thấy được xã hội sở dĩ tồn tại là nhờ vào lòng tin của mọi người đối với nhau. Kant từng nhận xét “thành thực là chính sách tốt đẹp nhất” nên nếu trong một tập thể mà tệ nói dối tràn lan thì không những làm mất đi hòa khí mà còn phá hủy nền tảng xã hooijlaf lòng tin cậy lẫn nhau mà từ đó dẫn đến xung đột chiến tranh. Đây cũng là vấn đề quan trọng mà mỗi cá nhân phải quan tâm để góp phần xây dựng một xã hội hòa bình an lạc.
       Với giới thứ năm thế tôn khuyên không nên uống rượu cũng như tất cả các chất men làm say người. Rượu tự nó không có tội nhưng vì uống nó làm cho sức khỏe hao mòn tinh thần mê mẫn không kiểm soát được ý nghĩ và hành động, Dẫn đến tư cách không có và có thể đưa đến hậu quả khó lường.
       Trong kinh phật có kể một anh nông dân bị thần chết hăm dọa sẽ giết chết nếu không làm hai việc: hoặc là giết cha mẹ anh hoặc là uống rượu. sau một hồi suy nghĩ anh đã quyết định uống rượu vì không nở giết chết cha mẹ. thế nhưng khi men rượu vào anh không còn phân biệt phải trái, anh đã giết chết người cha, xô ngã người mẹ, giết gà hàng xóm ăn thịt, cưỡng bức cô gái nhà bên và khi bị bắt giải lên quan anh phủ nhận tất cả tội lỗi.
       Từ đó để thấy sự liên hệ giữa lời Thế Tôn dạy. Giáo lý của ngài thật phù hợp cho tất cả mọi người mọi thời đại để có cuộc sống an lành.
      Nhìn vào thực tế hiện nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ để thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người thì đạo đức theo đó ngày càng suy thoái nghiêm trọng đến mức có người cho rằng vô phương cứu chữa. Về mặt kinh tế, nạn tham ô lường gạt phung phí tài sản của nhà nước và làm giàu bất chính vẫn ngang nhiên xảy ra. Về văn hóa thì nạn cờ bạc, rượu chè, mãi dâm và lưu truyền công khai những sản phẩm văn hóa đồi trụy. Về an ninh chính trị xảy ra nhiều hiện tượng trộm cắp cướp giựt và có đôi khi những kẻ phạm pháp vẫn ung dung sống ngoài vòng pháp luật. Trước hiện tượng báo động như thế, nếu đem năm giới áp dụng vào chắc chắc sẽ ngăn chặn những dòng thác phi đạo đức đang lan tràn như một bệnh dịch làm xói mòn lòng tin và làm tha hóa truyền thống đạo đức của dân tộc.
        Ngũ giới là căn bản của đạo đức làm người và cũng là căn bản của giới luật Phật giáo tất cả giới đều là từ năm giới phân chia ra và mục đích của tất cả giới phần nhiều cũng vì bảo vệ sự thanh tịnh của ngũ giới. vì vậy hành trì ngũ giới thanh tịnh là phương pháp tốt nhất để bảo vệ hạnh phúc tự thân hạnh phúc gia đình và thể hiện nếp sống văn minh.
      Giới luật Phật giáo tượng trưng cho chuẩn mực đạo đức và đạo đức Phật giáo cũng như viên ngọc quý, càng mài dũa càng đẹp, càng tỏa sáng. Đạo đức Phật giáo chỉ dạy con người làm những việc vô cùng bình thường, giản dị nhưng kết quả lại rất cao, cao đến vô cùng. Đạo Phật là đạo từ bi và bình đẳng nên ai cũng có thể đến được với đạo Phật nhưng sự hoàn thiện đạo đức còn tùy thuộc vào mức độ tu dưỡng của mỗi cá nhân.

4.2.  Sự đóng góp của giới luật đối với vấn đề môi trường
       Trong vũ trụ bao la, hành tinh chúng ta vô cùng nhỏ bé và sự sống vô cùng mong manh trước một số vấn đề bức xúc đang đối mặt. và một trong số đó là vấn đề khủng hoản môi sinh.
      Môi sinh là từ khác của thiên nhiên và khủng hoảng môi sinh chính là sự thay đổi không thuận lợi về môi trường sống chung quanh.
      Nhân loại trên thế giới đang rất tự hào trước những thành tựu của khoa học vì vậy đã xảy ra hiện tượng suy tôn vật chất và các tiện nghi máy móc như là cứu cánh của đời sống. Cùng với nhịp phát triển vũ bảo của đời sống văn minh sự xói mòn niềm tin đối với những giá trị truyền thống ngày càng mạnh mẽ con người không còn sống với những chuẩn mực đạo đức cơ bản và trên tất cả chính là do thiếu trách nhiệm và thiện chí nên việc triệt để khai thác các nguồn tài nguyên tăng trường sự phát triển kinh tế đã khiến cho đời sống con người trên hành tinh đang đứng trên bờ vực của nguy cơ hủy diệt khủng khiếp: Sự ô nhiễm môi trường.
      Phát triển luôn luôn là  trọng tâm của mỗi quốc gia. Phát triển được hiểu theo nghĩa hạn hẹp là sự phát triển kinh tế, là xây dựng và phát triển mọi năng lực tiềm tàng trong sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu của dân chúng. Phát triển cũng được hiểu là sự thay đổi toàn bộ, hệ thống xã hội để phục vị yêu cầu càng ngày càng nhiều của người dân về mặt vật chất lẫn tinh thần.
       Trên thực tế con người chỉ chú trọng đến phần vật chất do đó đã không ngừng phát triển sản xuất và thiên nhiên đã trở thành nguồn nguyên liệu không ngừng bị khai thác và khống chế.
      Đe dọa trực tiếp nhất ở đây chính là nạn phá rừng. theo thống kê hàng năm tại Việt Nam, rừng bị mất khoảng 200.000 ha. Trong đó khoảng 50.000 ha là để khai hoang trồng trọt.[38] Rừng ngày càng bị thu hẹp do nhu cầu phục vụ canh tác, do cung cấp nguyên liệu sản xuất và còn nhiều mục đích khác nữa. Hậu quả gì đã xảy ra khi rừng bị hủy diệt?
      Nơi lảnh chịu nhiều nhất là mặt đất. Mặt đất tồn tại được chính nhờ sự che chở của cây. Nơi rừng bị chặt phá thì mưa gió sẽ trực tiếp xói mòn đất khiến cho những lớp phủ màu mỡ bị cuốn trôi và đất trở nên cằn cỗi ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.
      Thứ nữa rừng chính là trợ duyên ngăn bớt những dòng thác chảy tràn xuống đồng bằng nhưng khi rừng bị mất thì lũ lụt và cường độ phá hoại của nó cũng tăng lên. Kéo theo hậu quả đó là mùa màng bị phá hoại và nạn đói đe dọa khắp nơi.
       Rừng còn là nơi trú ẩn của các loài động vật hoang dã nên khi môi trường sống hủy diệt những loài thú đó cũng bị tiêu diệt theo.
       Thứ đến là sự hủy hoại trên lĩnh vực công nghiệp. Hằng năm trên quá trình sản xuất các nhà máy đã khong ngừng thảy ra các chất thảy công nghiệp ô nhiễm và độc hại vào không khí đất nước. Ở thành phố Hồ Chí Minh, hàm lượng bụi và chì đã tăng vượt quá từ 3 đến 11 lần.[39] Trong số đó có những chất gây bệnh tật như khí co2 làm giảm năng xuất lao động và gây nhứt đầu, bụi chì làm yếu cơ bắp, đưa đến bại liệt làm  biến đổi các chức năng của gan thận và não.
       Lại nữa do quá trình đô thị hóa nên dân số ở thành thị ngày càng tăng và kéo theo đó là lượng xe cơ giới đã thảy ra không ít bụi bặm và khói gây ô nhiễm không khí, thêm vào đó khí cặn bả của nhà máy và khói xe đã đục thủng tầng ozone khiến tia cực tím tấn công vào người và sinh vật gây tăng bệnh ung thư da.
       Rồi do nạn nhân mãn nên lượng lương thực cung cấp cho mỗi đầu người càng  ngày càng thu hẹp từ 0.2 ha năm 1940 đã giảm xuống 0,15 ha năm 1970 và chỉ còn 0,12 ha năm 1988.[40] Và cũng vì dân quá đông nên các phế thảy từ cuộc sống không được giải quyết hợp lý và cuối cùng các dòng song kênh rạch đành phải thu nhận tất cả mà không có một lời than van. Hậu quả là nguồn nước không còn trong sạch đã dẫn đến việc ô nhiễm thức ăn và gây nhiều chứng bệnh cho con người.
       Tất cả mọi sự phát triển và thành tựu của khoa học chung quy cũng chỉ để thỏa mãn lòng tham của con người trong khi chạy theo lợi nhuận bên ngoài con người không những quên đi sự sống của thiên thiên của các loài sinh vật nhỏ bé mà còn quên cả bản thân mình. Họ không còn ý thức được ý nghĩa của cuộc sống hạnh phúc với sự đua đòi chạy theo vật chất và cũng không hay biết rằng giá trị đạo đức con người đang dần dần bị suy thoái.
      Từ những phơi bày vừa nêu trên cũng cho chúng ta thấy những hiểm họa của sự phát triển và chúng ta có thể hình dung được mối nguy hiểm của sự ô nhiễm môi sinh đã và đang đe dọa mạng sống của con người trên hành tinh chúng ta. Đã đến lúc con người phải có những biện pháp để bảo vệ môi sinh để ngăn chặng nguy cơ diệt chủng. Cách giải quyết là đòi hỏi phải thực hiện triệt để từ trong nội tâm của con người. Và chính ở đây sự hiện diện của Phật giáo với một nền đạo đức nhân bản đã góp phần cụ thể vào việc giải phóng con người  ra khỏi khổ đau do vô minh và tham ái đem đến, xây dựng một xã hội hòa bình hạnh phúc.
        Trước hết đạo Phật tán thán mọi phong trào bảo vệ môi trường vì một môi trường xanh sạch đẹp. Bảo vệ môi sinh chính là bảo vệ sự sống là thực hiện giới thứ nhất trong năm giới thế tôn chế cho người Phật tử tại gia.
        Trong giới này Thế Tôn dạy không được sát sanh nghĩa là không được giết hại con người loài vật cho đến thực vật cây cỏ cũng không được tàn phá.
       Ý nghĩa của giới không sát sanh là để nuôi dưỡng lòng từ bi. Từ bi trong đạo Phật gắn liền với trí tuệ và cả hai được trau dồi phát triển đồng đều với nhau. Trí tuệ làm cho từ bi sáng suốt và từ bi làm cho trí tuệ thuần lương. Từ bi của Phật giáo là tình thương bao la không biên giới. trong tình thương không giới hạn ấy, không còn thấy kẻ thù khác với người thân nên trong pháp quán từ bi người ta thường tập luyện theo hai cách: hoặc là quán từ người thân đến kẻ thù hoặc ngược lại từ kẻ thù cho đến người than, quán cho đến khi nào không còn sự phân biệt mới thôi.
      Tình thương của đạo Phật cũng không còn hạn cuộc trong phạm vi của con người mà còn lan rộng đến vạn vật cỏ cây. Thế tôn dạy tất cả mọi loài đều có Phật tính, đều có tình thức nên phải yêu thương chúng. Vì tất cả chúng sanh trong nhiều đời kiếp đã là cha mẹ, anh em với nhau nên không được giết hại lẫn nhau. Mình và loài vật tuy hình thức khác nhau nhưng sự sống chỉ là một, nên thương yêu một sinh vật nào đó cũng chính là thương yêu mình.
       Tình thương trong đạo Phật ban rãi đến cỏ cây hoa lá nên thế tôn khuyên không nên tàn phá, dẫm đạp lên cây cỏ, chỉ khi nào cần thiết mới chặt cây để dung hay để ăn. Chính tình thương bao la ấy đã tạo  nên sự hòa hợp cảm thông giữa người với người, giữa người và thiên nhiên.
        Tình thương của Phật giáo là tình thương không điều kiện, không cần đến sự đền trả, là sự rung cảm chân thành trước nổi đau của tha nhân nên tình thương ấy có thể chuyển hóa được kẻ độc ác thành người hiền đức, có thể chấm dứt được những hành động bất thiện của những người đang đắm chìm trong tham lam dục vọng đưa đến khổ đau cho nhân loại.
       Thế nữa thế tôn dạy không được sát sanh vì tôn trọng và bảo vệ sự sống của con người của sinh vật và cỏ cây hoa lá. Tất cả hữu tình đều có sự sống nên hủy hoại đời sống của người khác để duy trì mạng sống của mình là việc làm không những phi đạo đức mà còn trái nghịch với luật thiên nhiên.
       Theo giáo lý đạo Phật thân người là sự kết hợp của năm yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong đó mỗi uẩn bao gồm thân vật lý và toàn thể thế giới vật lý. Như vậy để thấy rằng thiên nhiên hay môi sinh chính là cơ thể con người hay là một phần rất lớn của cơ thể con người. Giữa con người và môi sinh có một sự liên hệ sinhđộng liên tục và không tách rời nhau nên con người không thể hiện hữu tồn tại nếu không có môi sinh. Mối liên hệ mật thiết ấy nói lên rằng nếu phá hoại môi sinh cũng chính là phá hoại đời sống con người. Nếu thiên nhiên bị ô nhiễm thì cơ thể con người sẽ bị hủy diệt theo.
      Vậy nên tôn trọng bảo vệ sự sống chính là tác nhân trực tiếp để bảo vệ môi trường sống, bảo vệ sự trong lành của đất nước, cỏ cây, của sự trong sạch bầu khí quyển và chỉ bằng cách bảo vệ môi sinh không ô nhiễm mới mong nhân loại có một cuộc sống bình an hạnh phúc.
      Ngoài tình thương bao la khắp mọi loài và tính công bằng tôn trọng sự sống của hết thảy chúng sanh, đạo đức Phật giáo còn đóng góp vào việc bảo vệ môi sinh bằng cách đề cao một đời sống chánh hạnh. Trong đó con người biết tự chủ, biết kiềm chế những dục vọng phát sanh từ nguồn gốc tội lỗi tham sân si. Phật giáo gọi tham sân si là ba độc vì chúng đầu độc đời sống con người và xã hội làm cho con người đau khổ xã hội loạn li.
      Do tham lam nên mong muốn tất cả thế giới của ta, muốn ôm vũ trụ vào lòng nhưng không được rồi sân hận nổi lên. Và vì giận mất khôn nên con người không còn biết gì cả, mọi hành vi do nóng nảy tham lam chỉ nhằm thỏa mãn cái ta nhỏ bé,  không biết phân biệt   phải trái không còn đạo lý con người.
       Trái lại con người với đời sống chánh hạnh là con người vô ngã an vui trong cuộc sống thiểu dục tri túc, biết giới hạn những đồi hỏi của nhu cầu vật chất và bằng lòng với những gì đang có. Đời sống chánh hạnh là nếp sống đạo đức thực hiện giới cấm thứ hai của thế tôn “ không trộm cắp” là động cơ gián tiếp bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang bị khai thác lạm dụng là góp phần kiềm chế, đấu tranh với những dục vọng thấp hèn, để có một nếp sống thanh bạch hòa nhịp với thiên nhiên với con người xã hội.
     Đạo đức Phật giáo khuyến khích con người bảo vệ môi sinh bằng cách tham gia giữ giới không tà dâm, để hạn chế nạn nhân mãn, giảm bớt nguyên nhân gây ra nghèo đói ô nhiễm môi trường.
       Đạo đức Phật giáo là một nền đạo đức nhân bản, xác lập trên cơ sở con người vì hạnh phúc của con người. Vì vậy những lời Phật dạy luôn đem đến hạnh phúc và an vui cho những ai hành trì theo.
     Con người sinh ra để hạnh phúc mà không phải để đau khổ, để phục vụ cho mục tiêu hạnh phúc chứ không phải mục tiêu nào khác, hành trì theo lời Phật dạy không những hạnh phúc cho mình mà còn cho tha nhân và xã hội. Hãy áp dụng phương châm “mỗi người vì mọi người, mội người vì một người” để cuộc sống tràn đầy tình thương nhân ái.
        Trong cuộc sống đó mọi người dành cho nhau những điều kiện sống trong lành không ô nhiễm,độc hại. Trong cuộc sống đó không còn những tư tưởng riêng tư nhỏ hẹp, can tâm phá hoại cuộc sống của môi sinh, làm gián tiếp hủy hoại đời sống của con người.
       Đạo đức Phật giáo luôn khuyên mọi người bỏ ác làm lành để có một đời sống hạnh phúc. Đời sống đó phải được xây dựng trên sự hòa hợp giữa mình và tha nhân, giữa mình và xã hội. Đời sống đó phải được kiến tạo trên niềm tin của mọi người với nhau. Và niềm tin chỉ có khi mọi người không lừa dối nhau, không đem những lời thêu dệt hoa mỹ để mê hoặc nhau. Đó là nếp sống đạo đức thực hiện lời dạy thứ tư của Phật “ không nói dối”.
     Người xưa có câu “ nhất ngôn khả dĩ hưng bang, nhất ngôn khả dic tán bang” để răn nhắc mọi người phải cẩn trọng lời nói, đừng vì một chút lầm lỗi để nước mất nhà tan.
        Trong bối cảnh hiện tại chiến tranh hạt nhân đã để lại cho con người bao nỗi đau kinh hoàng, đã phá hủy môi trường sống một cách tàn nhẫn, và đưa đến con người bao bệnh tật lạ kỳ. Đó là việc ác cực ác mà giới luật đạo Phật không chấp nhận.
        Đạo đức Phật giáo luôn nhắc nhỏ mọi người phải ý thức trong lời nói, phải làm chủ hành động, để bớt đi những đau khổ của nghiệp báo. Thực tế môi trường ô nhiễm và suy thoái hôm nay đã rút ra cho con người bài học sâu sắc về nhân quả, những thành tựu của khoa học vừa qua không những đem đến cho con người những thuận lợi, nó cũng gây ô nhiễm hủy hoại thiên nhiên và để lại mầm móng hiểm họa cho ngày mai. Từ sự ô nhiễm của không khí đất nước đến lỗ thủng của tầng Ozone, từ tài nguyên cạn kiệt đến nguy cơ đói kém, từ sự biến đổi của khí hậu đến căn bệnh thế kỷ hiểm nghèo. Tất cả đều là hậu quả của bao lầm lỗi. Nhiều học giả vẫn gọi đó là cuộc khủng hoảng sinh thái, thế nhưng xưa nay thiên nhiên không bao giờ lên tiếng phản đối bát kỳ một sự gây ô nhiễm đầu độc nào mà tất cả những yêu cầu cấp bách những tiếng kêu tha thiết “ phải bảo vệ thiên nhiên và con người”, “ phải thay đổi tư duy” đều phát xuất từ con người. Cuộc khủng hoảng sinh thái thực chất là cuộc khủng hoảng tư tưởng con người.
         Đối với đạo Phật tôn trọng và bảo vệ môi trường là một điều dĩ nhiên và tự nhiên không cần phải nói. Mọi hiện hữu đều liên hệ mật thiết với nhau, phụ thuộc nhau không tách rời nhau được, theo tinh thần vô ngã nhân duyên. Phá hủy môi trường tức là tự phá hủy và bảo vệ môi trường chính là một hành động sáng suốt biết nhìn xa.
        Trong tình hình hiện nay hành tinh chúng ta đang đứng trước nguy cơ diệt chủng của nạn ô nhiễm môi sinh, mọi người phải ý thức rõ trách nhiệm của mình, phải hành động có thiện chí để ngăn chặng sự de dọa môi trường hủy hoại, hơn bao giờ hết đạo Phật với giới luật đầy nhân bản, là kim chỉ nam cho mọi phong trào bảo vệ môi sinh, mọi người phải nhận thức được rằng phương thức tốt đẹp nhất để bảo vệ hạnh phúc của mình là không gây đau khổ cho người khác, phải ban bố tình thương đến muôn người muôn loài, phải biết sống thanh bạch giản dị khước từ những dục vọng thấp hèn và ước mơ một đời sống an lành hướng thượng. Một cuộc sống đầy đạo đức như thế chắc chắn sẽ đem lại an lạc hạnh phúc cho bản thân gia đình xã hội và góp phần tôn tạo môi trường sống xanh và sạch.




Chương V:  Kết Luận
           Như vậy, trong giáo lý Phật giáo, Giới Luật có chức năng  hướng dẫn làm con người sống đời sống đạo đức và hướng đến hạnh phúc thực tại. Giới luật dạy cách sống mô phạm để mọi người cùng thấy mà khởi tâm hành trì. Cũng thế, trong lĩnh vực tâm linh, giới luật là một dấu hiệu của sự chứng đắc tâm thức. Nó không những là phương tiện để cho bản thân người tu tập đạt được tâm hỷ lạc, và tác dụng của nó cũng vô cùng lớn lao đối với tha nhân và xã hội. Ông Albert Schweitzer, nhà triết học người Đức viết “đức Phật đã sáng tạo ra nền đạo đức nội tâm hoàn thiện qua năm điều răn cấm đầu tiên của Ngài và là một trong những nhà đạo đức học vĩ đại kỳ tài nhất mà thế giới có được”.
           Lại nữa, Phật giáo xây dựng đạo đức trên nền tảng trí huệ, mà muốn đạt được trí huệ phải lấy giới làm gốc để trau dồi thân tâm.
          Đối với hàng tăng ni trẻ ngày nay, nên phương tiện đưa giới luật vào cuộc đời bằng khí thở đạo đức, bằng thức ăn phạm hạnh và lấy việc tu dưỡng thân tâm làm hành trang để kiến tạo một xã hội an bình và hạnh phúc ngoài ra theo nghiên cứu về tâm lí học Phật giáo cho biết thì việc một người tu hay không tu yếu tố hổ thẹn có giá trị quan trọng trong việc giúp ta tránh được hành vi phạm giới.
         Cũng như trong kinh  Di giáo đức Phật nói: "Sự hổ thẹn là phục sức tốt đẹp nhất trong mọi thứ phục sức, như cái móc sắt, sự hổ thẹn có năng lực chế ngự mọi thứ phi pháp của con người. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy luôn luôn biết hổ thẹn, sĩ nhục, đừng bao giờ quên đức tính ấy, dầu chỉ tạm thời mà thôi. Mất hổ thẹn là mất công đức. Có hổ thẹn là có thiện pháp, không hỏ thẹn thì không khác chi cầm thú"  Qua lời Phật dạy, ta thấy đức tính hổ thẹn là nền tảng để xây dựng một nếp sống lành mạnh, có đạo đức. Cho dù là người tại gia hay người xuất gia cũng cần có đức tính ấy. Mất đức tính ấy là nguyên nhân sâu xa của mọi tệ nạn xã hội. Chúng ta là người Phật tử, là những người muốn xây dựng xã hội lành mạnh, hãy cố gắng gìn giữ đức tính ấy trong mỗi người, vì nó là vũ khí sắc bén nhất để ngăn chận mọi hành vi sai lầm, đồng thời nó cũng là thứ trang phục đẹp nhất trong mọi thứ trang phục. Cuối bài người viết chân thành cầu chúc cho xã hội có được nhận thức đúng đắn như tinh thần giới luật đức Phật đã chế.

Tài liệu tham khảo:
1.      Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Yết ma yếu chỉ, Tứ phần hiệp chú tập I, II, TCCPHVN, 1991.
2.      Hòa Thượng Thích Đổng Minh, Luật Tỳ kheo giới bổn sớ nghĩa, PL 2533.
3.      Hòa Thượng Thích Đổng Minh, Trùng trị tỳ ni sự nghĩa tập yếu tập I, 1995.
4.      Hòa Thượng Thích Minh Châu, Kinh Trung bộ I, II, VNCPHVN, 1992.
5.      Hòa Thượng Thích Chơn Thiện, Tăng già thời đức Phật, VNCPHVN, 1991.
6.      Thích Thánh Nghiêm, Giới luật học cương yếu, dg Tuệ Đăng, PL2538- 1994.
7.      HT.Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông quyển I, II, Nxb Tôn giáo Hà Nội, 1996.
8.      Thích Minh Thông, Theo dấu chân xưa, Nxb Tôn Giáo Hà nội, 2003.
9.      Thích Nữ Trí Hải (dịch), Thanh tịnh đạo luận tập 1, 1993.
10.  Thích Nữ Trí Hải (dịch), Tứ Phần Tỳ Kheo Ni giới bổn tập I, 1995.
11. Thích Thiện Siêu, Cương yếu giới luật, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, năm 1996.
12. Nguyễn Thiện Tống, Bảo vệ môi trường cho hôm  nay và mai  sau, TPHCM, xb 1991.
13. Việt Nam Những vấn đề tài nguyên và môi trường, Hà Nội Xuất bản 1986.



[1] Dẫn kinh Phạm Võng hiệp chú
[2] Dẫn luận Đại Tỳ Bà Sa quyển 44
[4] Thanh tịnh đạo luận tập 1, dịch giả TN Trí Hải ,1993. p.29
[5] Trùng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa tập yếu tập 1, dg T.Đổng Minh, Thích Đức Thắng 1995, p.p 57-58
[6] Thích Chơn Thiện, Tăng già thời đức Phật,1991.p.130
[7] Tứ Phần Tỳ Kheo Ni giới bổn tập I, Dịch giả TN Trí Hải,1995. p.28
[8] Trung Bộ 1,dg HT.Thích Minh Châu VNCPHVN, 1992, p.180
[9] Luật Tỳ Kheo Giới Bổn tập 1, dg Thích Đổng Minh, PL 2533,p1
[10] Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Luật tỳ kheo tập 2, 1991,p.p.84-85.
[11] HT.Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông quyển 2, Nxb Tôn giáo Hà Nội, tr109
[13] HT.Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông quyển 1, Nxb Tôn giáo Hà Nội, tr150
[14] Thích Thiện Siêu, Cương yếu giới luật, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, năm 1996, tr162
[16] HT.Thích Trí Thủ, Yết ma yếu chỉ tập 1, Trường cao cấp Phật học,1991.p.104
[17] Luật tứ phần giới bổn như thích, Tỳ kheo Thích Hành Trụ, Tịnh xá Trung tâm tái bản Pl 2511,p414
[18] Thích Minh Thông, Theo dấu chân xưa, Nxb Tôn Giáo Hà nội 2003, tr83
[19] Tăng Chi III, dg HT. Thích Minh Châu, VNCPHVN,1998,p.252
[20] HT. Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông quyển II, Nxb Tôn giáo, tr116
[21] HT. Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông quyển II, Nxb Tôn giáo, tr116
[22] HT. Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông quyển II, Nxb Tôn giáo, tr116
[23] HT. Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông quyển II, Nxb Tôn giáo, tr116
[25] HT. Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông quyển II, Nxb Tôn giáo, tr116
[26] Thích Thánh Nghiêm, Giới luật học cương yếu, dg Tuệ Đăng,PL2538- 1994, tr13
[27] HT. Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông quyển II, Nxb Tôn giáo, tr115
[28] HT. Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông quyển II, Nxb Tôn giáo, tr115
[30] HT. Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông quyển II, Nxb Tôn giáo, tr115
[31] Trung bộ I, Kinh không uế nhiễm, HT. Thích Minh Châu (dịch), P.593, 1992
[32] Dẫn Kinh Phạm Võng Bồ Tát giới
[33]  Dẫn Kinh Di Giáo
[34] Dẫn Phân Biệt Thiện ác quyển thượng
[35] Dẫn Chánh Pháp niệm xứ quyển 1
[36] Dẫn Tội Phước Báo Ứng
[37] Dẫn Đại Trí Luận quyển 13
[38] Việt Nam, những vấn đề tài nguyên và môi trường, Hà Nội XB 1986,p.21
[39] Nguyễn Thiện Tống, Bảo vệ môi trường cho hôm  nay và mai  sau, TPHCM, xb 1991,p.19
[40] Việt Nam những vấn đề tài nguyên và môi trường, Hà Nội xb 1986, p.21

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét