Viết bởi
Thích Tâm Khanh Trong các tông phái Phật giáo Trung Quốc, Thiền tông là tông phái có tầm ảnh
hưởng
quan trọng
nhất
đối
với
toàn bộ
hệ
thống
tư tưởng Phật giáo Trung Quốc từ
đời
Đường
trở
về
sau. Đây là nhận
định
chung của
hầu
hết
các nhà nghiên cứu
Phật
học
hiện
nay. Nếu
xét từ
cội
nguồn
thì hai phái chính trong hệ thống
Thiền
tông là Như Lai
Thiền
và Tổ
Sư Thiền. Như Lai Thiền
được
xem là phương
pháp tu Thiền
có cội
nguồn
từ
Phật
giáo Ấn
Độ,
trong khi Tổ
Sư Thiền lại có khuynh hướng được
xem là sáng tạo
riêng của
Phật
giáo Trung Quốc
và khởi
nguyên với
sự
hiện
diện
của
Ngài Bồ
Đề
Đạt
Ma.
Tịnh
Độ tông là tông phái cùng với Thiền và Mật tông có ảnh hưởng trong Phật giáo
Trung Quốc hiện nay. Tịnh Độ tông là tông phái chủ trương pháp môn "Vãng
sanh Tịnh Độ". Pháp môn tu Tịnh Độ ở Trung Quốc khởi thủy từ khi Ngài Tuệ
Viễn lập ra hội "Bạch Liên xã" ở Lư Sơn vào đời Đông Tấn, chủ trương
quán tưởng niệm Phật, tức quán niệm tướng tốt của Đức Phật A Di Đà.
c
Thích
Tâm Khanh
Dẫn nhập
Từ Ấn Độ du nhập vào Trung Quốc,
Phật giáo đã nhanh chóng hòa nhập vào các hệ tư tưởng văn hóa - tôn giáo bản
địa. Trong quá trình du nhập, hình thành và phát triển có thể nói Phật giáo
Trung Quốc đã tạo ra bản sắc riêng so với nguồn cội Ấn, đồng thời đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến hệ thống tư tưởng - văn hóa Trung Quốc. Công lao ấy thuộc về các
bậc cao Tăng của nhiều thế hệ Phật giáo Trung Quốc. Đây là ý kiến nhận định
chung của các nhà nghiên cứu văn hóa - tư tưởng Trung Quốc: Giáo sư Zenryu
Tsukamoto trong tác phẩm The Path of the Buddha đã nhận định: "Chính nhiều
các thế hệ Thiền sư trong nỗ lực truyền giáo đã đưa tư tưởng và nghệ thuật Phật
giáo vào trong nền văn hóa Trung Quốc và đem lại sự thay đổi vĩ đại trong văn
hóa, triết học, văn học, nghệ thuật và ngay cả trong các tập tục truyền thống
của dân tộc Trung Quốc" (1).
Nội dung
I/ Phật giáo và Nho gia: sự tiếp xúc của hai nền văn hóa Á
Đông
Văn
hóa Trung Quốc và Ấn Độ là hai nguồn tư tưởng văn hóa tối cổ của Á Đông. Trước
khi Phật giáo, đại diện cho luồng tư tưởng văn hóa Ấn Độ có mặt tại Trung Quốc
thì ngay tại bản địa đã hình thành nền văn hóa khá cao. Trong hệ tư tưởng lúc
bấy giờ, Nho gia theo tư tưởng hiện thực "lễ nghi chủ nghĩa" được xem
là hệ tư tưởng chủ đạo. Tư tưởng Nho gia được khởi đầu từ thời Xuân Thu - Chiến
Quốc (kéo dài từ 722 - 221 TTL) với các học thuyết của Bách gia chư tử và hoàn
thiện trong khoảng 400 năm thời kỳ nhà Hán. Từ khi Phật giáo Ấn Độ và Tây Vực
được truyền tới Trung Quốc vào cuối đời Hậu Hán, có thể nói đây là thời điểm
tiếp xúc đầu tiên của hai nền văn hóa Á Đông. Dân tộc Trung Quốc theo tinh thần
hiện thực của tư tưởng Nho gia tiếp nhận Phật giáo, và do vậy ngay từ đầu Phật
giáo ở Trung Quốc đã có những nét đổi thay so với cội nguồn Ấn Độ mà biểu hiện
rõ là sự hình thành và phát triển của các tông phái Phật giáo.
II/ Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của các tông
phái Phật giáo Trung Quốc
Khác
với Phật giáo Ấn Độ, quá trình hình thành và phát triển các tông phái Phật giáo
Trung Quốc luôn đi liền với công tác phiên dịch Thánh điển. Theo quá trình
phiên dịch, các tông phái Phật giáo Trung Quốc thường y cứ và cổ xướng theo tư
tưởng của kinh luận để lập tông. Tuy quá trình phân phái và lập tông đã manh
nha từ thời Đông Tấn nhưng hoàn chỉnh việc lập tông thì rõ nét nhất là ở thời
đại Nam - Bắc triều. Theo nhận định của các nhà Phật học như Thích Thanh Kiểm
trong "Lịch sử Phật giáo Trung Quốc" và J. Takakusu trong "The
Essentials of the Buddhism Philosophy" (Các tông phái Phật giáo, bản Việt
dịch của Tuệ Sỹ), chúng ta có thể phác thảo sơ lược lịch sử hình thành và phát
triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc như sau:
1. Tỳ Đàm tông (Câu Xá tông)
Tỳ
Đàm (nói đủ là A Tỳ Đàm) là tên gọi tắt của Trung Hoa về Abhidharma. Trước khi
luận Câu Xá (Abhidharma Kosa) được dịch sang Hán ngữ thì đã có một học phái
mệnh danh là Tỳ Đàm tông. Người đầu tiên nghiên cứu về A Tỳ Đàm là Ngài An Thế
Cao ở đời Hậu Hán. Các tác phẩm của A Tỳ Đàm được dịch sang Hán ngữ rất sớm
trong giai đoạn từ 383 đến 434 TL như "A Tỳ Đàm Cửu Thập Bát Kết
Kinh" của Ngài An Thế Cao, "A Tỳ Đàm Tâm Luận", "A Tỳ Đàm
Bát Kiền Độ Luận"... của Ngài Tăng Già Đề Bà đời Tiền Tần. Các học giả
thuộc Tỳ Đàm tông nổi bật có thể kể đến là các Ngài Huệ Tập, Tăng Mân, Pháp
Vân, Tăng Tung... Tuy nhiên, khi Luận Câu Xá của Ngài Thế Thân được Ngài Chân
Đế (Paramartha) dịch sang Hán ngữ từ năm 563-567 TL, sau đó là Ngài Huyền Trang
dịch từ 651-654 TL và được truyền bá rộng rãi thì Tỳ Đàm tông được thay thế
bằng Câu Xá tông.
2. Thành Thật tông
Tông
này được lập và cổ xướng từ thời Ngài La Thập theo tư tưởng của Luận Thành Thật
(Satyasiddhi), một bộ luận thuộc Tiểu thừa Phật giáo. Bộ luận này do Ngài Ha Lê
Bạt Ma (Harivarman) viết và được Ngài Cưu Ma La Thập (Kumàrajìva) chuyển sang
Hán ngữ thật sớm, vào 411-412 TL. Kể từ thời Ngài La Thập về sau, không khí
nghiên cứu học thuật của Thành Thật tông được phát triển nhanh chóng. Trong
khoảng từ 411 đến 498 TL đã có hơn 12 bộ sớ giải của các môn đồ Ngài La Thập
viết về Luận Thành Thật và đã có: "Hàng trăm buổi giảng thuyết về bản văn
này được truyền bá khắp Trung Hoa" (2). Đến đời Lương (502-507) thì Thành
Thật tông phát triển cực thịnh và được phổ biến rộng rãi với công lao của ba
ngài Pháp Vân, Trí Tạng và Tăng Mẫn. Trong giai đoạn này, Thành Thật tông được
xem là khuynh hướng Đại thừa. Thế nhưng, vào đời Tùy, kể từ khi Ngài Gia Tường
Đại Sư Cát Tạng nhận định Thành Thật luận là bộ luận thuộc Tiểu thừa Phật giáo
thì Thành Thật tông bắt đầu kém phát triển. Đến đời Đường, Ngài Đạo Tuyên tuyên
bố luận Thành Thật thuộc kinh Lượng bộ, một tông phái Ấn Độ được xem là tiểu
thừa, thì Thành Thật tông bước vào thời kỳ suy vi và không còn phát triển ở các
thời kỳ sau đó.
3. Nhiếp luận tông (Pháp tướng tông)
Nhiếp
luận tông (Samparigraha) là tiền thân của Pháp tướng tông (Dharmalaksana).
Nhiếp luận tông được thành lập từ khi Ngài Chân Đế (499-569) dịch và giảng về
bộ Nhiếp Đại Thừa luận (Mahàyànasamparihraha) Nhiếp Đại Thừa Luận do Ngài Vô
Trước viết vào thế kỷ V (được Ngài Thế Thân chú giải) là bộ luận đầu tiên phát
biểu học thuyết Duy thức. Ngài Phật Thủ (Buddhasanta) dịch bộ luận này sang Hán
văn lần đầu vào năm 531 TL, nhưng kể từ khi bản dịch của ngài Chân Đế vào năm
563 hoàn thành và do nỗ lực truyền bá của Ngài thì Nhiếp Luận tông mới chính
thức phát triển tại phía Nam Trung Quốc. Sau khi Ngài Chân Đế viên tịch, do
công lao của ngài Đàm Thiên nên tông phái này cũng dần dần phát triển ở phía
Bắc Trung Quốc. Đến đời Đường, Ngài Huyền Trang đã dịch lại hai bản "Nhiếp
Đại thừa luận" và "Nhiếp Đại thừa luận thích", đồng thời theo
học thuyết "Thành Duy Thức luận" của Ngài Hộ Pháp mà thành lập và
truyền giảng tư tưởng Duy Thức. Đệ tử Ngài Huyền Trang là Ngài Khuy Cơ là người
có công hệ thống hóa và chính thức thành lập nên Pháp tướng tông. Hai sáng tác
quan trọng của Ngài: "đại thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương" và
"Thành Duy Thức luận thuật ký" là căn bản của tông phái này. Nhiếp
luận tông kể từ đời Đường đã được hòa nhập vào Pháp tướng tông.
4. Tam Luận tông
Tam
luận là ba bộ Trung luận, Bách luận và Thập nhị môn luận. Lịch sử của tam luận
bắt đầu ở Trung Quốc với sự xuất hiện của Ngài Cưu Ma La Thập. Ngài là người có
công phiên dịch cả ba bộ luận trên sang Hán ngữ. Quá trình truyền thừa của Tam
luận tông bắt đầu từ thời Ngài Cưu Ma La Thập và được phân thành hai giai đoạn:
Giai
đoạn 1: Giai đoạn này được sử Phật giáo Trung Quốc gọi là "Cổ Tam luận
tông" gồm các Ngài Cưu Ma La Thập, Đạo Sinh, Đàm Tế, Đạo Lãng (Tăng Lãng),
Tăng Thuyên, Pháp Lãng. Trong đó, Ngài Tăng Lãng là người có công tách hẳn Tam
luận tông khỏi ảnh hưởng của Thành Thật tông, và Tam luận tông kể từ Ngài Tăng
Lãng đã có một nền móng thật sự.
Giai
đoạn 2: là giai đoạn truyền thừa của Ngài Cát Tạng. Ngài ngụ ở chùa Gia Tường
nên thường được gọi Gia Tường Đại A Cát Tạng. Ngài đã trước tác và biên soạn
nhiều khá nhiều tác phẩm. Trong đó có 3 tác phẩm Tam Luận sớ, Tam Luận Huyền
Nghĩa và Đại thừa Huyền Luận đã đem lại một cái nhìn mới cho tông Tam luận. Do
vậy, Tam Luận tông trong thời kỳ của Ngài Cát Tạng được gọi là "Tân Tam
Luận tông".
Cả
hai giai đoạn trên kéo dài trong hai thế kỷ thứ V và VI TL. Tuy nhiên, khi Pháp
Tướng tông hưng khởi do công của các Ngài Huyền Trang và Khuy Cơ thì Tam Luận
tông tại Trung Quốc đã không còn phát triển như trước mà được truyền sang và
quảng bá tại Nhật Bản do công Ngài Tuệ Quán (người Cao Ly) và sau đó là Phúc
Lượng (người Nhật Bản). Tam Luận tông bắt đầu có mặt tại Phật giáo Nhật Bản từ
thế kỷ thứ XII.
5. Hoa Nghiêm tông
Khai
tổ chính thức của Hoa Nghiêm tông là ngài Đỗ Thuận (551-640). Pháp danh của
Ngài là Pháp Thuận nhưng vì Ngài họ Đỗ nên thường được gọi là Đỗ Thuận. Tuy
nhiên, trước khi Hoa Nghiêm tông chính thức được thành lập ở đời Đường thì tại
Trung Quốc đã có hai học phái là Niết Bàn tông và Địa Luận tông.
Niết
Bàn tông là học phái y cứ trên nội dung của kinh Niết Bàn. Địa Luận tông là học
phái chuyên nghiên cứu và truyền giảng trên tinh thần và nội dung của tác phẩm
"Thập Địa Kinh Luận", bản luận giải của Ngài Thế Thân về kinh Thập
Địa (Dasabhumi sutra) vốn là một bộ phận của Kinh Hoa Nghiêm. Về sau do có nhận
thức, giải thích khác nhau về các chủ đề tư tưởng trong hai bộ kinh luận trên
nên cả Niết Bàn tông và Địa Luận tông đều được phân thành hai dòng phía Bắc và
phía Nam. Các nhóm học giả của "Bắc phái Niết Bàn" cũng như "Nam
phái Thập địa" về sau đều hòa nhập vào tông Hoa Nghiêm. Các bậc cao Tăng
trong phổ hệ truyền thừa của Hoa Nghiêm tông của Phật giáo Trung Quốc tiếp theo
Ngài Đỗ Thuận là các Ngài Trí Nghiễm (602-668), Nghĩa Tương (625-702), Pháp
Tạng (643-712), Trừng Quán (738-839), Tôn Mật (780- 841). Trong các vị trên,
Pháp Tạng là người có công rất lớn trong việc hệ thống hóa toàn vẹn nền triết
học Hoa Nghiêm. Có thể nói Hoa Nghiêm tông trở thành một tông phái đích thực là
do công lao của Ngài.
6. Thiên Thai tông (Pháp Hoa tông)
Thiên
Thai là tên một hòn núi ở tỉnh Thai Châu miền Nam Trung Quốc. Suốt trong hai
thời đại Trần và Tùy, Ngài Trí Khải (531-597) trú ở núi này và xiển dương kinh
Pháp Hoa. Tông phái do Ngài thành lập do vậy có tên Thiên Thai tông hoặc Pháp
Hoa tông. Trước Ngài Trí Khải, kinh Pháp Hoa vốn đã là bộ kinh được nghiên cứu
rất kỹ ngay sau khi Ngài La Thập phiên dịch xong bộ kinh này, gồm 7 quyển - 27
phẩm, vào năm 406 TL. Về sau, Ngài Pháp Hiển từ Ấn trở về đã phiên dịch và bổ
sung thêm phẩm Đề Bà Đạt Đa vào nên mới có 28 phẩm. Trong giai đoạn đầu, quá
trình hình thành giáo nghĩa của Pháp Hoa tông có liên hệ tới việc nghiên cứu
của Ngài Huệ Văn (505-577) về tư tưởng: "Không - Giả - Trung trong Đại Trí
Độ luận. Ngài đã dựa theo đó mà lập tư tưởng: "Nhất tâm tam quán"
(3). Phương pháp quán niệm này được truyền bá mạnh do công của đồ đệ Ngài là
Ngài Huệ Tư (514-577). Đồng thời Huệ Tư còn đề ra pháp tu Thiền quán theo tư
tưởng "chỉ quán nhất như", tức chủ trương việc kiêm tu định và huệ.
Tuy nhiên, chỉ khi truyền đến Ngài Trí Khải thì giáo nghĩa Thiên Thai tông mới
chính thức được kiện toàn. Kể từ đấy tông này mới được gọi là Thiên Thai tông.
Từ pháp tu quán "Nhất tâm tam quán", Ngài Trí Khải đề ra một pháp tu
quán mới là "Nhất niệm tam thiên" (4). Sự nghiệp trước tác, chú sở
của Ngài Trí Khải là một công trình đồ sộ, nhưng nổi bật là ba bộ sách Pháp Hoa
Văn Cú, Pháp Hoa Huyền Nghĩa và Ma Ha Chỉ Quán; giải thích rõ ràng về yếu nghĩa
kinh Pháp Hoa. Về sau ba bộ này được Ngài Quán Đảnh (561-632), đệ tử truyền
thừa của Ngài Trí Khải soạn tập và thường được gọi là "Pháp Hoa Tam Đại
Bộ". Sau khi Ngài Quán Đảnh viên tịch, do sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các
tông phái khác như Pháp Tướng, Hoa Nghiêm, Thiền và Chân Ngôn nên Thiên Thai
tông đã suy yếu dần. Đến thế kỷ thứ VIII, Thiên Thai tông được phục hưng do
công của Ngài Trạm Nhiên (717-782) và sau đó được Ngài Đạo Toại, đồ đệ của Ngài
Trạm Nhiên dạy cho Ngài Tối Trừng (người Nhật). Thiên Thai tông chính thức được
truyền sang Nhật Bản kể từ Ngài Tối Trừng.
7. Mật tông (Chân Ngôn tông)
Chân
Ngôn dịch nghĩa Phạn ngữ "Mantra", nghĩa là "Bí mật giáo",
giáo pháp không thể phát hiểu bằng những ngôn ngữ thông thường. Chân Ngôn tông
hay Mật tông phát xuất từ Ấn Độ và được truyền tới Trung Quốc khá muộn. Vào
thời Đông Tấn, tuy đã có một vài bản kinh tiếng Phạn được các vị Tăng Ấn Độ như
Ngài Cát Hữu (Srimitra), Ngài Bạch Thi Lê Mật Đa La dịch sang Hán ngữ như Đại
Quán Đảnh kinh, Khổng Tước Vương Kinh... và rải rác các bài thần chú trong các
kinh điển, nhưng đó không phải là thuần túy Mật giáo. Phải đến đời Đường
(618-907) thì Mật tông mới chính thức du nhập vào Phật giáo Trung Quốc, khởi
đầu với sự hiện diện của ba đại học giả Ấn Độ là Ngài Thiện Vô Úy (Subhakarasimha,
637-735), Ngài Kim Cương Trí (Vajrabodhi, 671-741), Ngài Bất Không
(Anoghavajra, 705-774). Bộ kinh căn bản của Mật tông là bộ Đại Nhật kinh được
Ngài Thiện Vô úy dịch sang Hán ngữ với sự trợ giúp của đệ tử là Ngài Nhất Hành
(cũng là đệ tử của Ngài Kim Cương Trí, 638-727).
Sự
truyền thừa của Mật tông tại Trung Quốc tương đối giản đơn hơn các tông phái
khác. Tuy vậy, tông này lại rất được các triều vua Đường: Huyền Tông, Túc Tôn,
và Đại Tôn ủng hộ. Đặc biệt là Ngài Bất Không đều được ba đời vua trên trọng
đãi. Các công trình phiên dịch kinh điển Mật tông được tiến hành với qui mô đồ
sộ. Theo sử Phật giáo Trung Quốc, Ngài Bất Không cùng với các ngài La Thập,
Chân Đế và Huyền Trang được gọi là "bốn nhà đại phiên dịch" của Phật
giáo Trung quốc. Không những trong Phật giáo mà Mật tông còn ảnh hưởng đến
nhiều lĩnh vực trong nền văn hóa Trung Quốc như điêu khắc, kiến trúc, hội
họa... Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của nạn Võ Tôn phế Phật vào cuối đời Đường
(5) nên Mật tông của Phật giáo Trung Quốc bị suy yếu trầm trọng nhưng lại được
truyền sang Nhật Bản do thầy trò hai ngài Huệ Quả (người Trung Quốc, đệ tử Ngài
Bất Không) và Không Hải (người Nhật Bản theo học với Ngài Huệ Quả). Ngài Không
Hải là người sáng lập ra "Chân Ngôn tông" của Phật giáo Nhật Bản.
8. Thiền tông
Trong
các tông phái Phật giáo Trung Quốc, Thiền tông là tông phái có tầm ảnh hưởng
quan trọng nhất đối với toàn bộ hệ thống tư tưởng Phật giáo Trung Quốc từ đời
Đường trở về sau. Đây là nhận định chung của hầu hết các nhà nghiên cứu Phật
học hiện nay. Nếu xét từ cội nguồn thì hai phái chính trong hệ thống Thiền tông
là Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền. Như Lai Thiền được xem là phương pháp tu Thiền
có cội nguồn từ Phật giáo Ấn Độ, trong khi Tổ Sư Thiền lại có khuynh hướng được
xem là sáng tạo riêng của Phật giáo Trung Quốc và khởi nguyên với sự hiện diện
của Ngài Bồ Đề Đạt Ma. HT Thích Thanh Kiểm viết: "Ở Trung Quốc, đời Hậu
Hán, Ngài An Thế Cao đã thông đạt Thiền kinh và đã thực hành về Tiểu thừa
Thiền. Nhưng tới khi Ngài La Thập dịch kinh "Tọa Thiền tam muội" và
sau đó Ngài Phật Đà Bạt Đà La (Giác Hiền) dịch "Đạt Ma Đa La Thiền
kinh" thì thời đại cơ vận Đại thừa Thiền được nhanh chóng lưu hành. Trong
tình thế ấy, lại xuất hiện một hệ thống Thiền của Tổ Bồ Đề Đạt ma và trở thành
nền tảng cho Thiền tông các đời sau" (6).
Bồ
Đề Đạt Ma (Bodhidharma) là thái tử thứ 3, con vua Kancipura xứ Nam Ấn. Theo lời
dạy của thầy là Ngài Bát Nhã Đa La (Prajnàtara), Ngài sang Trung Quốc vào đời
Lương, khoảng năm 470-520 TL (7). Theo phổ hệ truyền thừa của Thiền tông Ấn Độ,
từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến đời Ngài là thứ 28, nhưng Ngài được xem là
người khai sáng của phổ hệ truyền thừa Thiền tông Trung Quốc gồm: 1/Bồ Đề Đạt
Ma. 2/Huệ Khả (? - 593) 3/ Tăng Xán (? - 606) 4/ Đạo Tín (580 - 651) 5/ Hoằng
Nhẫn (602-675). Bắt đầu từ Ngài Hoằng Nhẫn, Thiền tông Trung Quốc đã bắt đầu
phát triển cực mạnh với sự truyền giảng của hai ngài Thần Tú (605-706) và Huệ
Năng (được xem là Tổ thứ 6 của Thiền tông Trung Quốc, 638-713). Ngài Thần Tú
truyền giáo ở phương Bắc nên dòng Thiền này gọi là dòng Thiền Bắc tông. Tương
tự dòng Thiền của Huệ Năng được gọi là dòng Thiền Nam tông. Thiền Bắc tông chủ
trương giáo pháp tiệm ngộ (sự bừng sáng của trí tuệ giải thoát có được theo quá
trình tu tập thứ lớp) nên được gọi là "Bắc tiệm". Trong khi đó, Thiền
Nam tông lại có mục tiêu đốn ngộ (giác ngộ ngay, không theo thứ lớp) nên được
gọi là "Nam đốn". Trong các thời đại sau đó, Thiền phái của Ngài Huệ
Năng phát triển rất mạnh và phân thành 5 tôn là Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động,
Vân Môn và Pháp Nhãn. Lâm Tế tôn sau lại chia thành hai phái là Hoàng Long và
Dương Kỳ. Năm tôn trên, thêm vào hai phái sau thường được sử viết là "Ngũ
gia thất tôn".
Vào
các thời đại Nguyên, Minh, Thanh, trong khi một số tôn phái khác bị suy thoái
dần do sự du nhập và phát triển mạnh mẽ của Lạt ma giáo Tây Tạng thì Thiền tông
lại trở thành tông phái phổ biến nhất. Từ Trung Hoa Dân Quốc đến nay, Thiền
tông vẫn là một tông phái chủ đạo của Phật giáo Trung Quốc.
9. Tịnh Độ tông
Tịnh
Độ tông là tông phái cùng với Thiền và Mật tông có ảnh hưởng trong Phật giáo
Trung Quốc hiện nay. Tịnh Độ tông là tông phái chủ trương pháp môn "Vãng
sanh Tịnh Độ". Pháp môn tu Tịnh Độ ở Trung Quốc khởi thủy từ khi Ngài Tuệ
Viễn lập ra hội "Bạch Liên xã" ở Lư Sơn vào đời Đông Tấn, chủ trương
quán tưởng niệm Phật, tức quán niệm tướng tốt của Đức Phật A Di Đà. Đến thời
Nam - Bắc triều, Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch bộ "Vãng sanh Tịnh Độ luận"
do Ngài Thế Thân trước tác và trở thành bộ luận căn bản cho tông Tịnh Độ. Pháp
tu Tịnh Độ của Ngài Bồ Đề Lưu Chi được Ngài Đàm Loan kế thừa và truyền cho cao
đệ là Ngài Thiện Đạo (613-681). Ngài Thiện Đạo là vị có công hoàn thành giáo
nghĩa của tông Tịnh Độ. Các tác phẩm của Ngài viết như "Quán Kinh
Sớ", "Vãng Sinh Lễ Tán", "Ban Chu tán", "Quán
Niệm Phật Môn", "Pháp Sự tán" bao hàm giáo lý tinh yếu của Tịnh
Độ tông, giải thích kinh Quán Vô Lượng Thọ, bộ kinh trọng yếu của tông phái
này.
Sau
Ngài Thiện Đạo còn có pháp môn niệm Phật của Ngài Từ Mẫn (Tuệ Nhật, 680-740)
nhưng đã chịu ảnh hưởng của Thiền tông. Từ Ngài Từ Mẫn trở về sau, giáo nghĩa
Tịnh Độ có khuynh hướng "Thiền Tịnh song tu". Tịnh Độ tông vẫn âm
thầm phát triển theo khuynh hướng trên và được hưng khởi mạnh mẽ vào thời nhà
Minh do công của các Ngài Vân Thê Châu Hoằng (1535-1615), Ngẫu Ích Trí Húc
(1599-1655) và Đại sư Ấn Quang ở cuối đời nhà Thanh tới thời Trung Hoa Dân
Quốc.
10.
Luật tông
Luật
tông là tông phái nương theo giới luật mà thành lập nên có những điểm khác với
tông phái khác. Giới luật là những qui giới phải tuân thủ của giáo đoàn Phật
giáo. Trước khi truyền vào Trung Quốc, mỗi bộ phái Ấn Độ đều có giới luật của
bộ phái mình. Thế nhưng, khi truyền đến Trung Quốc chỉ có 4 bộ "Ma Ha Tăng
Kỳ luật" do Ngài Pháp Hiển và Phật Đà Bật Đà La dịch; "Thập Tụng
luật" do hai Ngài Phất Nhã Đa la và Đàm Ma Lưu Chi dịch; "Tứ phần
luật" do Ngài Phật Đà Da Xá đời Diêu Tần dịch; "Ngũ Phần luật"
do Ngài Phật Đà Thập dịch là được lưu hành. Dưới thời đại Nam - Bắc triều, việc
nghiên cứu Thập Tụng Luật rất được thịnh hành ở phương Nam; nhưng kể từ khi Ngài
Huệ Quang ở Bắc Ngụy bắt đầu nghiên cứu và truyền giảng Tứ Phần luật thì xu
hướng theo Tứ Phần luật được hưng thịnh. Trong suốt đời Tùy đầu đời Đường, qua
sự nghiên cứu và giảng giải của các Ngài Pháp Thông đời Bắc Ngụy, Ngài Đạo Phú,
Ngài Tuệ Quang (468-537), Đạo Vân, Đạo Huy, Trí Thủ (môn đệ của Ngài Đạo Vân),
Hồng Tuân (đệ tử Ngài Đạo Huy) thì Tứ Phần luật trở thành bản luật phổ biến của
Phật giáo Trung Quốc. Đến đời Đường, Tứ Phần luật tôn hoàn toàn được thành lập
và chia thành ba phái: Nam Sơ tôn của Ngài Đạo Tuyên, (môn đồ Ngài Huyền Trang,
596-667), Tướng Bộ tôn của Ngài Pháp Lệ (569-635) và Đông Tháp tôn của Ngài
Hoài Tố (624-697). Tuy nhiên, chỉ có Nam Sơn tôn của Ngài Đạo Tuyên còn được
duy trì và phát triển cho tới ngày nay.
Kết luận
Quá
trình hình thành và phát triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc luôn gắn
liền với lịch sử văn hóa - tư tưởng Trung Quốc. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, ở
từng thời đại và mỗi triều đại, sự phát triển của các tông phái Phật giáo Trung
Quốc như nước ở trong đại dương, đôi khi lặng lẽ êm đềm nhưng cũng có lúc hưng
khởi mãnh liệt. Sự hưng khởi của tông phái này dường như là để bổ túc cho sự
suy vi của một tông phái khác. Điều này phản ánh trọn vẹn tinh thần Duyên khởi
rất hiện thực của đạo Phật. Tuy nhiên, một đặc điểm quan trọng cần lưu ý là
không bao giờ có sự đối kháng đến trở thành mâu thuẫn trong quá trình phát
triển các tông phái của Phật giáo Trung Quốc nói riêng và Phật giáo nói chung.
Bởi lẽ toàn bộ quá trình ấy luôn nằm trong tinh thần xây dựng những tư tưởng
hướng nghiệm cho con người trong quá trình sống - tu tập - đạt đến giải thoát.
HT Thích Thanh Kiểm trong sách Lịch sử Phật giáo Trung Quốc đã viết: "Giáo
học của Phật giáo được cấu thành bởi ba môn học là "Giới học",
"Định học" và "Tuệ học". Phật giáo Trung Quốc vì nghiên cứu
về Tuệ học nên Tam Luận tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông được thành lập;
vì tu tập về "Định học" nên có Thiền tông ra đời; và nương theo
"Giới học" để tu trì nên có Luật tông xuất hiện (8). Đây có lẽ không
phải là một đặc tính riêng Phật giáo Trung Quốc mà còn là đặc điểm chung của
toàn bộ lịch sử phát triển Phật giáo từ Ấn Độ cho đến các quốc gia có Phật giáo
trên thế giới và cả ở Phật giáo Việt Nam chúng ta hiện nay.
Chú
thích
(1)
Kenneth W. Morgan, The Path of the Buddha, Chapter V: Buddhism in China and
Korea (Zenryu Tsukamoto, translated by Leon Hurvitz). The Ronard Press Company.
NewYork 1956, p 183-184.
(2)
J. Takakusu, The Essentials of the Buddhism Philosophy (Xem "Các tông phái
Phật giáo" bản dịch Tuệ Sỹ, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1973, tr. 147).
(3)
Tam quán là "Không quán", "Trung quán" và "Giả
quán". Nhất tâm tam quán nghĩa là trong một tích tắc của ý niệm đều có đầy
đủ ba tính chất không, giả và trung.
(4)
Nhất niệm tam thiên: Theo Ngài Trí Khải, mỗi ý niệm mê vọng của con người đều
bao hàm toàn thể thế giới, nói hẹp là 10 giới (Tứ Thánh và lục phàm), nói rộng
là 3000 pháp, có nghĩa là toàn thể thế giới. Ba tính Không, Giả, Trung trong
mỗi ý tưởng đều có quan hệ mật thiết với nhau, chúng thật ra chỉ là một. Ở đây,
Ngài Trí Khải chủ yếu muốn nêu lên phương pháp quán niệm trên để người tu tập
có nhận thức đúng về bản chất của tâm mình.
(5)
Xem lại bài PHHT, Đại cương lịch sử Phật giáo Trung Quốc, phần 2b.
(6)
Thích Thanh Kiểm, Giáo trình lịch sử Phật giáo Trung Quốc (Tài liệu giảng dạy
của Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM) tr. 14 (bản ronéo).
(7)
Tài liệu của Thích Thanh Kiểm ghi "khoảng năm 470" (Giáo trình lịch
sử ... Sđd, t. 14) trong khi J. Takakusu trong Essentials of Buddhism
Philosophy lại viết "đến Trung Hoa năm 520" (Xem "Các tông phái
Phật giáo", bản Việt dịch của Tuệ Sỹ, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1973, tr.
304). Do vậy, chúng tôi ghi khoảng thời gian ước định để học viên tiện việc
tham khảo (tg).
(8)
Thích Thanh Kiểm, Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, Thành hội PG TP. HCM ấn hành,
1991. tr 157.
(*)
Sđd: Sách đã dẫn.
(*)
TL: Tây lịch . TTL: trước Tây lịch
Sách tham khảo
1.
Kenneth W. Morgan, "The Path of the Buddha", Chapter V: Buddhism in
China and Korea (Zenryu Tsukamoto, translated by Leon Hurvitz). The Ronard Press
Company. NewYork 1956.
2.
J. takakusu, The Essentials of the Buddhism Philosophy (Các tông phái Phật
giáo; bản Việt dịch của Tuệ Sỹ, Tu thư Đại học Vạn Hạnh ấn hành 1991).
Sự giao thoa và tương tác kéo dài hàng chục thế kỷ giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Việt Nam đã tạo nên mối quan hệ khắng khít giữa Phật giáo Việt Nam và Phật giáo Trung Hoa trong các
lãnh vực triết học, văn học, ngôn ngữ, nghệ thuật... Do vậy, khi bàn về Phật giáo Việt Nam người ta không thể không đề cập đến Phật giáo Trung Hoa. Đây là lý do
khiến Ban Giáo Dục Tăng Ni Trung Ương đặc biệt
chú trọng và sớm đưa “Lịch
sử Phật giáo Trung Quốc” vào chương trình giảng dạy ngay từ bậc Trung cấp Phật học. Tuy nhiên, những biên khảo, trước tác đang sử dụng về lĩnh vực này lại chưa được
phong phú. Trong bối
cảnh như thế,
việc ra đời cuốn “Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc” do đại đức Viên Trí biên soạn đáng được khích lệ.
Đại
đức Viên Trí, sau
khi tốt nghiệp tiến sĩ Phật học tại đại học Delhi, Ấn Độ, đã trở về nước giảng dạy tại các học viện Phật giáo Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh và Huế. Với kiến thức, kinh nghiệm đã tích lũy trong thời gian học tập, nghiên cứu ở nước ngoài, cũng như phương pháp giảng dạy trong thời gian hai năm qua tại các học viện Phật giáo Việt Nam, đại đức chứng tỏ là một giảng viên có nhiều triển vọng.
Tập
sách “Lược
Sử Phật Giáo Trung Quốc” bao gồm tám chương, trình bày một cách chi tiết, rõ ràng bối cảnh xã hội của từng thời kỳ mà sự ảnh hưởng qua lại giữa Phật giáo và xã hội Trung Quốc xảy ra trong quá trình tồn tại và phát triển, và những nét đặc thù của
Phật giáo Trung Quốc có thể giúp người đọc dễ dàng hiểu rõ vấn đề. Điều này cho thấy khả năng và sự nghiêm túc của soạn giả trong lãnh vực nghiên cứu. Đây là một công trình biên khảo có giá trị, rất cần cho giới nghiên cứu, các giảng viên cũng như tăng, ni sinh các trường Trung cấp,
Cao đẳng cũng như Học viện Phật giáo Việt Nam trong việc tìm hiểu Phật giáo Trung Quốc nói chung, và
Phật giáo Trung Quốc từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X nói riêng.
Phật giáo Trung Quốc có thể giúp người đọc dễ dàng hiểu rõ vấn đề. Điều này cho thấy khả năng và sự nghiêm túc của soạn giả trong lãnh vực nghiên cứu. Đây là một công trình biên khảo có giá trị, rất cần cho giới nghiên cứu, các giảng viên cũng như tăng, ni sinh các trường Trung cấp,
Cao đẳng cũng như Học viện Phật giáo Việt Nam trong việc tìm hiểu Phật giáo Trung Quốc nói chung, và
Phật giáo Trung Quốc từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X nói riêng.
Hân
hạnh giới thiệu tác phẩm này đến tăng, ni sinh và quý vị độc giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét