Phần 4
31. Mua lừa
32. Trôm vàng
33. Chặt cây tìm trái
34. Thâu ngắn ñường ñi
35. Thấy bóng trong gương
36. Lầm móc con mắt
37. Giết trâu
38. Bảo nước ñừng chảy
39. Sơn tường
40. Người sói ñầu tìm thuốc
31. Mua lừa
Thuở xưa, có một số tín ñồ của ñạo Bà-la-môn cử hành cuộc ñại hội, họ cần dùng
nhiều chén bát. Vị giáo chủ của họ bảo ñệ tử lên chợ mời một người thợ ñồ sứ về làm.
Ðệ
tử vâng lệnh ñi tìm thợ. Ði giữa ñường, bọn họ gặp người thợ ñang dắt một con lừa, trên lưng chở rất nhiều ñồ sứ ñem ra chợ bán. Lừa sẩy chân té quỵ xuống, bao
nhiêu ñồ sứ trên lưng ñều rớt xuống ñất và bể tan tành. Người thợ ñồ sứ buồn rầu khóc
lóc
mãi. Bọn họ thấy thế lấy làm lạ
hỏi
rằng:
- Tại sao anh khóc buồn bã thế?
Người thợ
trả
lời:
- Tài nào tôi không khóc, bao nhiêu ñồ sứ công phu làm trong một năm, nay ñịnh
chở ra chợ bán, nào ngờ con lừa bị sảy chân, trong khoảng khắc bể nát cả, như thế
không ñáng rầu rĩ ư!
Bọn họ nghe thế mừng thầm và nghĩ rằng:
- Con lừa nầy giỏi quá, công khó người thợ làm một năm, chỉ trong nháy mắt nó
có thể làm tiêu tan hết.
Bấy giờ bọn họ mới thương lượng với người thợ ñể mua con lừa. Người thợ ñang
tức giận muốn tống cổ nó ñi, nghe có người mua
nó, vội vã bán ngay.
Bọn họ cưỡi lừa
về
ra mắt giáo chủ, vị giáo chủ hỏi rằng:
- Tại sao không tìm thỉnh người thợ
ñồ
sứ, mà lại mua
lừa ñem về?
Bọn ñệ
tử
trả lời:
- Bản lãnh con lừa nầy lớn hơn người thợ ñồ sứ, vì người thợ làm
trong một năm mới thành một số ñồ, mà
chỉ
trong giây phút một mình nó, nó phá
tan.
Vị giáo chủ lắc
ñầu
và nói rằng:
- Sao các con dại dột thế? Con lừa nầy, trong khoảnh khắc có thể làm bề bao nhiêu ñồ sứ, nhưng dù trải trăm năm, nó cũng không thể làm ra
ñược một cái chén.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Ở ñời có nhiều người thọ ân của người khác giúp ñỡ, chẳng những họ không thù ñáp lại,
mà
thường hay
trả
oán. Hạng người
vong ân bội nghĩa
như
thế, chúng ta không nên gần gũi, vì chỉ có hại chứ không ích lợi gì.
32. Trộm vàng
Thuở xưa, có hai
người thương gia
cùng ở một chỗ, một
người
buôn vàng, một người buôn bông vải. Có người ñến mua vàng,
ñể vàng vào lửa thử xem thiệt hay giả.
Người buôn bông vải
kia lén trộm một cục, sợ thấy, bèn ñem giấu trong bông. Vàng
ñang cháy nóng ñỏ làm cho bao nhiêu bông vải cháy sạch sành sanh, việc ăn cắp bại lộ. Người kia chẳng những không trộm vàng ñược, mà còn bị cháy hết bao nhiêu là bông vải.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Những kẻ ngoại
ñạo ăn cắp giáo lý của ñạo Phật ñem làm của mình,
nhưng vì họ không rõ nguyên lý, không khéo sử dụng,
chẳng những không
hiểu Phật pháp, việc làm không ñi
ñến ñâu, mà lại làm cho giáo pháp của họ bị
pha
trộn. Chung cục, cơ mưu bị bại lộ, làm trò cười cho mọi người.
33. Chặt
cây
tìm trái
Thuở xưa, trong vườn một ông vua, có trồng một thứ trái cây rất
tốt, tàng nhánh sum sê, sanh trái ngon ngọt lạ
thường, không nơi nào có cả.
Ngày nọ có người khách ngoại quốc ñến chơi, vua ñưa ñi xem cây ấy và nói rằng:
- Cây nầy sanh một thứ trái ngon vô song, chẳng nơi nào có cả.
Khách hỏi:
- Quả
thật có trái
ngon, vậy cho tôi một trái ăn thử ñược không?
Vua bằng lòng, bèn gọi người ñốn cây ngã
xuống ñể tìm trái, nhưng tìm không
ñược trái
nào. Sau ñó, vua báo người
ñem
cây ñã chặt trồng lại, rồi tìm ñủ cách cũng không thể nào làm cho nó ñâm chồi nảy lộc ñược như xưa. Cây ấy ñã chết tuyệt.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Ðức
Thích Tôn ñã từng chỉ cho chúng ta công ñức trì giới, giống như cây ñại thụ, có thể sanh các thứ trái thần thông, trí tuệ, từ bi, thiền ñịnh
ngon lành. Chúng ta muốn có những thứ trái cây ấy, thì trước tiên phải trì giới tu
hành, dùng nhiều công ñức pháp lành bón tươi, mới
mong kết quả tốt ñẹp
hoàn toàn. Nhưng có một số người không hiểu phương pháp
ấy, buông lung,
hủy
phạm giới luật
oai
nghi, mà còn mong cầu thần thông, ñịnh, huệ, khác nào người chặt cây tìm trái như trên, chẳng những trái không tìm ñược, mà cây quí từ nay ñã chết khô. Hạng
người hành ñộng như thế thật ñáng thương.
34. Thâu
ngắn ñuờng ñi
Thuở xưa,
có một thôn cách kinh thành một trăm dặm, nơi ấy có một cái giếng nước rất trong và ngon ngọt, lạ thường.
Vua hạ lệnh cho dân làng, mỗi
ngày
phải chở nước về kinh thành cho vua uống.
Dân làng ngày ngày tới lui mệt mỏi không chịu ñược, bèn rủ nhau trốn ñến
phương xa. Việc nầy thôn trưởng biết ñược, mới triệu tập một cuộc ñại hội thôn dân,
vị
thôn trưởng ñứng ra tuyên bố:
- Các anh em chớ ñi ñâu hết, tôi sẽ yêu cầu nhà vua thâu ngắn con ñường một
trăm
dặm thành sáu mươi dậm tức khắc. Các anh em
ñi
lại sẽ gần hơn, không ñến nỗi
mệt
mỏi như trước.
Hội nghị bế mạc, vị thôn trưởng vội vã vào kinh yêu cầu vua như thế. Vua phê
chuẩn lời thỉnh cầu,
và
hạ lệnh cho sở lục lộ thâu ngắn con ñường một trăm dặm còn sáu mươi dặm. Dân làng ñược tin ấy ñều vui mừng và tự cảm thấy gần hơn trước. Từ ñấy họ càng tin tưởng lời vua, họ ñồng lòng tỏ không dời ñi ñâu cả.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Người ñời phát tâm tu học chánh pháp mong cầu thoát ly
sanh tử, luân hồi, nhưng vì thời gian tu học dài dằng dẳng, nên càng thấy mỏi mệt, nửa ñường thối tám không muốn tiến tới.
Ðức Như Lai
có ñủ phương tiện, ñem pháp
nhất thừa phương tiện nói ba thừa,
khiến cho hàng căn tánh kém cỏi, trí huệ cạn gần, nghe xong cho là Phật pháp dễ tu,
dễ chứng, mới mạnh mẻ
nỗ
lực tiến tu pháp lành công ñúc, hầu
thoát
ly sanh tử luân
hồi. Sau khi bọn họ chứng quả vị tiểu thừa xong, Phật trở lại chỉ trích họ. Ngài thuyết
minh: Phật pháp xưa nay chỉ có nhứt thừa chớ không có hai hay ba thừa, nghĩa là:
"Sự thật chỉ có một, hể có hai cái tương ñối thì không phài là chơn". Bây giờ bọn họ
càng tin tưởng lời Phật, có thể hồi tiểu quả hướng ñến ñại thừa, tin thế không nghi, an nhiên tiến tu ñạo ñại thừa Bồ Tát.
35. Thấy bóng trong gương
Thuở
xưa, có một người rất nghèo khổ, mắc nợ quá nhiều, không có cách gì ñể trả
nợ, chỉ còn có cách là ñi trốn.
Ngày nọ, y ñi
ñến cánh ñồng bao la bát ngát, chợt thấy một cái rương, bèn mở ra xem
thử, thấy ñầy một rương ngọc ngà, châu báu, có ñậy một miếng kiếng lên trên. Bây giờ y vui mừng không xiết, bèn thò tay vào lấy những của báu ấy. Nhưng y thấy trong rương hiện ra một người (tức là bóng của y) có vẻ dọa nạt y, y hoảng sợ dừng tay lại, trong tâm lo sợ không an, bèn nói với người trong gương:
- Ta cho là trong cái rương nầy, tưởng ñâu là không có người, nào dè thấy có người trong ñó, quái lạ
chưa?
Nói xong, y vội vàng chạy ñi nơi khác.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Người ñời thường bị vô lượng phiền não ràng buộc, làm cho khốn ñốn, khổ não, không có phúc ñức, duyên lành, lại thường bị sống chết quay cuồng "ma vuông, trái chủ" áp bức khổ sở,
nên muốn cầu giải thoát khỏi vòng thống khổ, ñau thương mà tu học Phật pháp.
Bọn họ có công vun bồi cõi phúc giống lành, dụ như cái rương ñầy của báu, rồi lại thường bị "thân kiến ngã chấp" làm mờ, cho nên ở trong vô thường, vô ngã lại
vọng chấp có ngã, thường còn. "Thân kiến",
"ngã chấp" dụ như bóng hiện trong gương, bọn họ lầm cho là chân thật, do ñó mà không thể tu hành thiền ñịnh, ñạo
phẩm, chứng thành công ñức vô lậu. Hành vi của bọn họ cùng với cử chỉ của người ñã ñến rương báu mà không lấy ñược
vật
gì, giống nhau không khác.
36. Lầm móc
con mắt
Thuở xưa, có một người tu trên núi, học
ñược pháp thuật, có thể
khám
phá tất cả
ngọc ngà, châu báu chôn dưới ñất lâu năm. Chuyện nầy thấu ñến tai vua, vua rất
mừng rỡ, bảo quần thần rằng:
- Ta muốn mời nhà nghệ thuật ấy ở luôn trong nước ñể giúp ta tìm của báu ñã bị
chôn vùi, nước chúng ta sẽ trở nên ñại phú cường tức khắc.
Bây giờ có vị ñại thần lãnh sứ mạng ñi tìm nhà nghệ thuật. Vị ñại
thần quả nhiên tìm ñược người ấy, nhưng không chịu thỉnh về nước, mà lại móc cặp mắt của người, ñem về dâng cho vua và nói:
- Hạ thần ñã móc mắt của nhà nghệ thuật rồi, người ñó sẽ không thể ñi khỏi nước
ta ñược.
- Vua nghe xong lấy làm bất mãn nói rằng:
- Ngươi thật là dại
dột, sở dĩ ta muốn thỉnh người là vì người có cặp mắt, có thể khám phá
ñược của báu bị mai táng.
Nay
ngươi hủy hoại cặp mắt
của người ấy rồi thì người ấy còn dùng vào việc gì ñược
nữa!
** Chuyện nầy tỉ dụ: Phật giáo do nhận thấy các
bậc ñại ñức cao tăng khắc khổ
thanh tu trong rừng núi,
phi
thường cung kính rước về nhà cúng dường, không biết rằng làm thể chỉ ngăn ngại sự tu khắc khổ thanh ñạm của các
ngài, thậm chí làm cho
các ngài hủy phá giới hạnh, lui sụt pháp lành, không thể
thành công ñắc quả.
Phật tử tại gia thường hay mắc
bệnh mù quáng và lầm lẫn: hộ pháp không biết
pháp, cúng dường không ñúng pháp, hoặc ñem tình ñời làm hoen ố giới,
ñịnh thanh
cao
của các bậc ñại ñức xuất gia, làm thế mình và người ñều bị hại, gây nên tội lỗi
lớn.
37. Giết
trâu
Xưa, có một người nuôi 250 con trâu, thường thả ra
ñồng ăn cỏ.
Một hôm, có con cọp vồ lấy một con ăn thịt. Người kia thấy thế, tự nghĩ thầm:
"Trâu ta mất một con, không ñủ số, ta còn dùng bầy trâu ñây làm
gì?" bèn ñuổi cả bầy trâu xuông hố, chúng chết tuyệt không còn lấy một con.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Phật tử xuất gia thọ trì "Giới cụ túc" hai trăm năm mươi rất hoàn hảo. Sau ñó bất cẩn lỡ phạm một ñiều, ñã không biết xấu hổ, ăn năn, sám hối
cho
trở lại thanh tịnh như xưa, mà lại lầm tưởng: "Ta ñã phá một giới rồi, thì giới
hạnh ñã kém khuyết, dù có ăn năn giữ kỹ các giới cũng chẳng ích gì". Rồi từ ñây
ngang nhiên phạm giới không còn biết kiêng sợ, bỏ cả giới luật không hành trì. Người tu hành như thế cùng với người giết trâu như kia ñều là hạng ngu si ñáng thương cả.
38. Bảo nước ñừng chảy
Thuở xưa, có một người ñi ñường rất khát nước, xem thấy bên ñường có cái hang,
giòng suối từ trong ấy chảy ra nước trong leo lẻo, kế bên có cái thùng hứng nước
ñầy
tràn. Người kia bèn kê miệng uống. Sau khi uống ñỡ khát rồi, y chỉ cái thùng và nói:
- Ta uống ñỡ khát rồi, vậy nước
ơi! Ðừng chảy ra nữa.
Nhưng nước vẫn cứ chảy mãi không ngừng. Người kia tức mình quá, ñứng bên cái
thùng chửi rủa om sòm. Mọi người thấy thế
cười và
trách anh ta rằng:
- Anh cần gì làm thế, hãy lánh ñi nơi khác ñi, hà tất phải bảo nước ñừng chảy nữa.
** Chuyện nầy tỉ dụ:
Người ñời thường say ñắm trong biển sanh tử tham ái, uống nước ngũ dục tanh hôi, ñôi khi cũng cảm thấy chán chê, ước mong con ma ngũ dục
lạc ñừng ñến quấy rầy, nhưng nào ñược như ý. Muốn thế ta cần phải ñề phòng các giác
quan, tự kiểm ñiểm lấy mình cho cẩn thận. Tạm ñừng dính líu duyên trần, ý ñừng
vọng tưởng sự thế. Nếu chẳng dụng công xoá bỏ bợn nhợ nơi lòng, mà chỉ mong muốn ngăn cảnh ngũ dục bên ngoài
ñừng ñến quấy nhiểu, thì chẳng
những không thể ngăn ñược miếng mồi ngũ dục (I),
mà
lại hằng bị nó lôi cuốn vào ñường trụy lạc ñau thương, mãi quay cuồng trong
hố
sâu tội lỗi, chẳng
hy
vọng ngày nào giải thoát ñược phiền não, mê
lầm. Hành ñộng như thế
chỉ
uổng công vô ích.
(I) Ngũ dục: Tài, sắc, danh, ăn, ngủ; hoặc là sắc, hương, thanh, vị, xúc, cảnh giới
ấy thường thường làm cho con người ñiên ñảo, mê hoặc.
39. Sơn tường
Thuở xưa, có một
người ñến chơi
nhà người bạn, thầy vách tường nhà bạn sơn bóng loáng, ráo khô, sạch sẽ, mới hỏi rằng:
- Anh dùng thứ chi sơn quét vách tường ñẹp thế?
Người bạn trả lời:
- Tôi dùng cám trộn với bùn và nước.
Người kia bèn nghĩ: dùng cám mà còn tốt như vậy, nếu dùng nguyên lúa trộn với
bùn mà
sơn
tường, thì chắc còn tốt hơn nữa.
Y bèn trở về nhà, dùng rất nhiều lúa trộn với
bùn sơn lên vách. Kết quả chẳng
những hoang phí một số lúa mà còn làm cho vách tường trở nên chỗ lồi, chỗ lõm không bằng phẳng, nhiều nơi lại sứt mẻ.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Một số người hiều lầm Phật pháp, hoặc tự cho mình là thông minh, tu
bướng theo ức kiến của mình, rồi xa rời
chánh pháp, thường thường mắc bệnh khổ công tu hành mà chỉ tổn hại
không ích.
Thí như phàm phu nghe Thánh nhân thuyết
pháp rằng: Tu các pháp lành, sau khi chết sẽ ñược sanh thiên, hoặc ñược giải thoát; rồi họ lầm lẫn tự giết chết thân mình ñể mong ñược sanh thiên hưởng phước báo. Kết quả chỉ hủy thân, còn ñối với sự tu hành không ñược chi cả.
Họ
với người kia ñều là hạng ngu si.
40. Người sói ñầu tìm thuốc.
Thuở xưa, có một người ñầu sói không có một sợi tóc, về tuyết ñông lạnh vô
cùng,
mùa hạ nóng không thể tả, lại
bị muỗi mòng bu cắn rất là ñau ñớn.
Chàng nghe ñồn có vị lương y có thể trị hết bệnh sói và bất cứ bệnh gì, khó trị mấy ông cũng ñều
trị lành.
Người bèn ñến nơi thưa
hỏi:
- Tôi có bệnh sói ñầu rất ñau ñớn, nghe
ñồn ngài có thể trị lành bệnh tôi, cúi xin
thương xót chữa cho tôi khỏi bệnh.
Lập tức
vị
lương y lột nón của mình ra ñưa ñầu sói cho xem và
nói:
- Thấy chăng, ta tự mắc bệnh ấy và ñau khổ vô cùng. Giả sử ta có thể trị ñược
bệnh sói, thì ta
ñã tự chữa
cho ta khỏi bệnh rồi.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Người ñời mắc chứng bệnh: sanh, già,
bệnh, chết rất khổ
não; muốn cầu ñạo trường sanh bất tử mà
không chịu ñến với Phật, Bồ tát
là
những bậc Thánh nhân siêu trần ñể cầu học ñạo thoát ly, mà trở lại tự mình mù quáng,
ñến
những kẻ ngoại
ñạo thỉnh cầu, dầu biết những kẻ ngoại ñạo tự mình vẫn bị trôi lăn
trong vòng sanh tử, luân hồi, không có pháp giải thoát, làm sao cứu ñược người.
--- o0o ---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét