Phần 1
1. Người ngu ăn muối
2. Ðể dành sữa
3. Khoanh tay chịu ñòn
4. Giả chết dối chống
5. Khát không uống nước
6. Giết con thành gánh
7. Nhận người làm anh
8. Trộm áo nhà vua
9. Kẻ ngốc khen cha
10. Phú ông cất lầu
1. Người ngu ăn muối
Thuở xưa, có một
người ngu ñến nhà bạn thăm, chủ nhà mời ở lại dùng bữa cơm
ñạm bạc. Chàng chê canh lạt không ngon. Chủ nhà bèn thêm
một chút muối, chàng ăn cảm thấy ngon lành.
Chàng tự nghĩ:
- Canh ngon là nhờ muối thêm vào, dùng ít còn vậy, nếu dùng nhiều chắc chắn
ngon ñặc
biệt.
Thế rồi, chàng xin chủ nhà một
chén muối
bỏ trong miệng nuốt hết! Vì chất muối
mặn
kinh hồn, chàng cảm thấy gần như sắp chết, bèn vội vàng móc họng cho mửa muối ra.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Phàm người tu
hành phải tiết chế sự ăn uống cho vừa phải, biết ñủ muốn vừa, thì ñối với thân thể và sự tu hành ñều có ích lợi. Nhưng có những
kẻ ngoại ñạo tuyên truyền sai lạc, uốn cong thành ngay
quá
mức, ñể xướng lên thuyết không cần ăn uống, nhận cho là phương pháp có thể ñắc ñạo.
Do dậy có người ñoạn thực bẩy ngày, mười lăm ngày, kết quả là ảnh hưởng ñến thân thể ñói khát mà chết, và ñối với công hạnh không có một ñiểm lợi ích nào; ñó chỉ là hành ñộng sai lầm.
Người hành pháp như thế cùng người ăn muối kia ñều là hành ñộng ngu xuẩn
ñáng chê cười cả.
2. Ðể dành
sữa
Thuở xưa, có một người ñịnh tháng sau ñãi khách, cần có nhiều sữa bò, do ñó phải dự trữ trước ñến lúc ấy mới khỏi thiếu hụt.
Người kia tự nghĩ:
- Mỗi ngày mình nặn sữa ñể dành, cần phải có cái thùng cây rất lớn. Xét kỹ ra,
sữa
ñể trong thùng cây lâu ngày dễ hư hại, chi bằng ñể trong vú bò, ñến ngày ñãi
khách hãy nặn ra một thể, ñã ít tốn công lại ñược sữa mới. Chẳng phải ñó là phương
pháp tuyệt hay ư?
Thế rồi chàng dắt bò mẹ nhốt
riêng,
nghé
nhốt
riêng chổ khác,
và không nặn sữa mỗi ngày.
Qua tháng sau ñến ngày ñãi khách, chàng dắt bò mẹ ra
nặn lấy sữa tươi ñãi khách,
nhưng dùng hết sức
nặn
mà một giọt cũng không có, làm
cho
khách dự tiệc không thể
nín cười.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Người muốn làm hạnh bố thí mà ñợi ñến khi nhiều tiền mới
làm việc cứu giúp kẻ khốn cùng. Nghĩ thế rất lầm. Chúng ta phải nên tranh thủ thời gian kịp thời làm hạnh bố thí. Chẳng vậy thì cùng với người ngu kia ñể dành sữa
trong vú bò không khác.
3. Khoanh tay chịu ñòn
Thuở
xưa, có một anh ngốc sói ñầu. Ngày nọ, có người thấy ñầu anh không có tóc bèn dùng trái lê
ñánh lên, ñầu anh bị ñánh nhiều lần, máu ra
lên láng.
Tuy bị ñánh, anh ngốc vẫn ñứng im lặng chịu ñòn, không kháng cự, không trốn
tránh.
Bấy giờ
có người thấy thế
trong lòng bất nhẫn liền bảo anh rằng:
- Vì sao anh cứ ñứng trơ ra mà chịu ñánh? Nếu không ñánh lại, thì nên tránh ñi
mới phải. Kìa xem, ñầu anh ñầy cả
máu, không sợ ñau à?
Anh ngốc ñáp rằng:
- Ôi! Người ngu nầy rất xấc láo, nó không hiểu gì cả. Vì thấy ñầu ta không tóc, nó tưởng là viên ñá xinh xắn mới tùy tiện dùng trái lê ñánh lên, không biết ñó là ñầu ta. Nó ñánh ta ñến nổi máu ra lênh láng. Ông ơi! Ðối với
hạng người vô trí thức ấy, ta
chẳng biết tính làm sao ñược.
Người kia nghe rồi rất giận, liền mắng trách anh ngốc
rằng:
- Anh thật là ñáng thương, người ta
ñánh ñến nổi ñầu bị thương, máu ra
dường ấy, mà
vẫn
ñứng chân không lay ñộng, như thế chẳng phải ngu si là
gì?
** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một số vị Tỳ kheo,
không thể chân thật giữ giới, tu ñịnh,
học huệ, chỉ gò ép oai nghi bên ngoài ñể mong ñược người cúng dường cung kính. Kết quả tự mình chịu khổ vô cùng.
Bậc tu hành thế nầy và người ngốc
kia
ñều là hạng ngu si cả.
4. Giả chết dối chống
Thuở xưa, có anh chàng cưới
người
vợ
rất ñẹp, nhưng tánh tình không ñứng ñắn, chàng thương yêu vợ vô cùng; nhưng trái lại nàng chẳng yêu chàng. Vì thế nàng có tình nhân khác, thường có ý muốn bỏ chồng ñể
kết
duyên với người nàng thích.
Thừa dịp chồng ñi vắng, nàng tìm một bà già rồi kín ñáo dặn rằng:
- Sau khi tôi ñi khỏi nhà, xin bà tìm thay một cô gái khác ñể vào ñây, chồng tôi có
trở
về,
bà cho chàng biết là
tôi ñã
chết.
Bà già
ñã làm y như lời nàng dặn.
Khi trở về nhà, người chồng nghe thấy tin thật rất buồn rầu, ñau ñớn, kề bên thi
hài
khóc lóc rất lâu, rồi mới ñem
thi hài người con gái ấy hỏa táng, ñem
tro xương
ñựng trong cái ñãy, ngày ñêm mang theo mình ñể kỷ niệm mảnh tình quá khứ.
Còn vợ chàng lúc
ấy
ñã kết duyên cầm sắt với tình nhân.
Nhưng trải qua nhiều ngày, biết
ñược tình nhân ñã nhàm chán, phụ rẫy nàng, lòng
nàng lại tưởng nhớ ñến người chồng cũ, bèn vội vã trở về thưa
với chàng rằng:
- Tôi là
vợ chàng, nay ñã trở về. Người chồng bảo:
- Vợ tôi chết ñã lâu! Cô là
ai ñến ñây nói dối là vợ
tôi ñể
làm
gì?
Mặc dù nàng biện bạch ñôi ba phen, xin chàng thừa nhận, nhưng chàng quyết tin
chắc
vợ chàng ñã
chết, nên không nhận nàng là
vợ.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Người ñã bị thành kiến làm chủ rồi, thì rất khó cải ñổi. Như
kẻ ngoại ñạo nghe lời
ngụy tà, tâm sanh mê hoặc, chấp trước cho là chân thật, vĩnh viễn không thể hoàn cải hồi tâm, dù có nghe giáo pháp chân chánh cũng không chịu
tin
tưởng thọ trì.
5. Khát không uống nước
Thuở xưa, có một người ñi ñường rất khát nước, muốn tìm nước uống ñể giải khát. Xem thấy sương mù tận ñằng xa, y tưởng là nước. Sau lại kiếm ñông, tìm tây, gặp ñược giòng sông,
nước trong leo lẻo, chảy thao thao không ngừng. Anh chỉ ñứng nhìn không chịu uống.
Có người thấy thế lấy làm quái lạ, hỏi rằng:
- Anh vì khát ñi tìm nước ñể uống, nay tìm ñược nước rồi, tại sao không uống?
Anh ta
trả
lời:
- Nước nhiều như thế này, anh có uống hết ñược không? Tự xét thấy, uống hết
ñược tôi mới uống. Ðã biết uống không sao hết ñược, nên tôi không uống, có thế thôi.
Ai nấy nghe xong ñều chê
cười anh ta.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một số người lý luận bướng bỉnh, chấp nhặt cho kiến
giải của mình,
không
gần
ñược chân lý,
cho
là giới luật
của Phật
dạy
rất
rộng lớn, nghiêm ngặt một thời không thể thọ trì toàn bộ, bèn bỏ không thọ. Do ñấy, họ cứ y
nhiên trôi lăn trong vòng sanh tử chịu khổ vô cùng, trọn ñời không có hy vọng ñắc ñạo. Hành ñộng như
vậy
thật ñáng chê cười mà cũng ñáng thương xót.
6. Giết
con thành gánh
Thuở xưa, có người nuôi bảy ñứa con, trong số ấy có một ñứa chết. Anh ta ñể thi hài con trong nhà rồi tự mình và cả gia
ñình bỏ nhà ñi nơi khác.
Người láng giềng thấy thế
hỏi rằng:
- Sao anh không ñem ñứa con ñã chết của anh ra ngoài mai táng, lại bỏ nhà ñem
nhau ñi ra ngoài? Hành vi như thế
rất
là dại dột.
Anh nghe xong, trả
lời:
- Người chết phải ñem
ra ngoài mai táng, ñúng hay sai chẳng cần! Vậy anh có thể
bảo cho tôi biết phải làm
cách nào không? Than ôi! Chỉ có cách là giết thêm
một ñứa
nửa, mới có thể thành gánh, gánh ñi chôn.
Kết quả anh giết
một
ñứa con nữa ñể cùng
ñứa con ñã chết, rồi chất
thành một gánh, gánh lên chôn trên núi cao.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Tỳ kheo phạm một ñiều giới luật, không chịu sám hối, ăn
năn, trở lại muốn tìm cách che giấu sự thật, làm bộ như người trì giới thành tịnh trang nghiêm.
Người khác
thấy
thế, vạch bày chỉ trích:
- Người xuất gia giữ giới phải như giữ gìn ngọc minh châu, tại sao ñã tái phạm
mà
không chịu sám hối?
Tỳ kheo ấy cứ ngang nhiên làm nhiều việc ác, phá giới ñể rồi sám hối một lúc cho tiện luôn. Tỳ kheo phá giới như thế cùng với người
giết con thành gánh như trên
ñều là hạng ngu xuẩn vô trí cả.
7. Nhận người làm
anh
Thuở xưa, có người nhà rất giàu, cử chỉ
ñứng ñắn lại thông minh, vì thế kẻ xa người gần ñều thán phục, ái mộ. Bấy giờ có một người ñến nhận làm anh mình,
thường thuờng qua lại thân thích khác thường. Chàng nẩy nhận người nhà giàu làm anh ñể làm chi thế? Mục
ñích chỉ vì muốn lợi dụng tiền bạc.
Sau ñó, người nhà giàu kia
sa sút khốn cùng, vỡ nợ, chàng ta trở
mặt
lãnh ñạm và
nói
thẳng với người nhà
giàu kia
rằng:
- Ngươi không phải là anh ta.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Có kẻ ngoại ñạo lợi dụng và trộm cắp một bộ phận ngụ
ngôn, phương pháp và nghi thức của Phật pháp, ñem làm giáo pháp của bọn họ
thường dùng. Nhưng hoàn toàn không có thật tâm tin tưởng, phụng trì, chỉ muốn ngăn
che âm mưu tội
ác của bọn
họ, tuy thế giáo pháp của Phật không bao giờ bị
bọn lừa
ñảo lợi dụng ñược.
8. Trộm
áo
nhà vua
Thuở xưa, có người
nhà quê, lẻn vào kho áo của vua lấy trộm một bộ y phục, rồi lén chạy ñến một phương xa.
Sau khi vụ mất trộm
bị
phát giác, nhà vua
bèn phái nhiều binh lính ñến các nơi tra
tìm, cuối cùng bắt ñược tên ăn trộm ñưa về tòa án. Khi bị thẩm vấn, y không thừa
nhận y phục nầy là ñã lấy trộm của vua, còn nói ñó là di sản của tổ phụ lưu truyền lại. Vua mới bảo y lấy y phục
ấy mặc
thử.
Y không biết cách mặc, ñem món ñang mặc trên cánh tay mà mặc dưới chân, ñem món ñang mặc
ngang lưng bụng mà
mặc lên trên ñầu.
Vua thấy thế phán rằng:
- Ngươi mặc lộn như
vậy, chứng tỏ y phục ấy chẳng phải của tổ phụ ngươi lưu
truyền. Huống nữa, y phục nầy là của vua và các quan mặc, tổ phụ ngươi làm gì có
thứ nầy?
Tên ăn trộm cứng họng, không thể
trả
lời ñược, ñành phải cúi ñầu nhận tội.
** Chuyện nầy tỉ dụ:
Những kẻ ngoại ñạo ăn trộm giáo nghĩa của Phật pháp làm của mình; nhưng vì không hiểu rõ chánh nghĩa Phật pháp; ăn trộm rồi ñể ñó chứ
không dùng ñược chuyện gì, chỉ ñược cái ñiên ñảo tạp nhạp không thứ tự, lớp lang.
Kết
quả không khỏi bộc lộ bản chất của bọn họ.
9. Kẻ ngốc
khen
cha
Thuở xưa, có một người hay khen ngợi ñức hạnh của cha mình trước mặt nhiều
người khác: nào là cha anh lòng rất nhân từ, không bao giờ làm tổn hại ai cả, nào là
cha
anh không bao giờ cướp giựt, lừa gạt tài vật của ai, nào là ñối ñãi với mọi người
rất công bình chánh trực, không bao
giờ
nói
dối
mà
lại hay giúp ñỡ người
trong khi
nguy khốn, v.v...
Lúc ấy có một người ngu thấy thế tự nghĩ: "Mình cũng nên khen cha
mình một
phen".
Nghĩ xong, anh bèn nói:
- Ðức hạnh của cha tôi còn hơn ñức hạnh phụ thân ông! Người chung quanh bèn hỏi:
- Ðức hạnh ông thân anh như thế nào?
Người ngu liền ñáp:
- Cha
tôi từ nhỏ ñã
tuyệt ñường dâm dục, chẳng hề biết gì về việc ấy.
Ai nấy nghe cũng ñều bật cười mà nói: Nếu quả thật cha anh từ nhỏ
ñoạn dục thì làm sao sanh ñược
anh?
Nghe hỏi, anh nọ ñừ người ra
chẳng biết phải trả lời làm sao.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Khen chỗ tốt của người cần phải phù hợp với thực tế. Nếu
bịa lời khen giả dối, chẳng những không hiệu quả gì, mà lại làm cho người khinh bỉ.
Do
ñó trong năm giới của Phật Giáo cấm vọng ngữ
là
một.
10. Phú ông cất
lầu
Thuở xưa, có một
người nhà giàu mà rất ngu si, không biết việc gì cả. Một
hôm, chàng ñi ñến nhà một phú ông khác. ðó là một nhà lầu ba tầng, xinh ñẹp không ñâu
bằng. Lòng chàng rất ham thích và tự nghĩ:
- Tiền của ta ít
hơn người nầy, nhưng lẽ nào không cất
ñược một trong ba tầng ấy
hay sao?
Ðoạn chàng về nhà
liền cho mời một nhà kiến trúc
ñến hỏi rằng:
- Ông có thể cất
lầu ba tầng không? Nhà kiến trúc ñáp:
- Ðược, tôi ñã làm nhiều nơi rồi.
Chàng nói:
- Tốt lắm, ông nên làm ngay cho tôi một tòa
lầu
ba tầng, giống như của
bạn tôi.
Nhà
kiến trúc
ñem
công nhân khởi sự, san ñất, ñắp nền, xây ñá, lên tường.
Cách ít hôm, anh chàng nhà
giàu ñến xem xét, không thấy tầng lầu thứ ba, bèn hỏi
nhà
kiến trúc:
- Hiện ông ñang làm gì ñó? Nhà kiến trúc trả lời:
- Tôi làm nhà lầu ba
tầng cho ông ñấy.
Chàng lại hỏi:
- Tại sao cất tầng lầu ba
mà lo xây tầng dưới, không chịu cất nơi tầng trên cho tôi? Nhà kiến trúc trả lời:
- Phải cất từ tầng dưới lên, không cất hai tầng dưới làm sao
có thể cất ñược tầng thứ ba?
Không suy nghĩ kỹ, lập tức
chàng nói rằng:
- Không, không, tôi không cần làm hai tầng dưới, tôi chỉ muốn làm tầng thứ ba
thôi, ông hãy làm cho tôi một tầng chót trên cho mau chóng.
Nhà kiến trúc nghe xong cười to, ñôi ba
phen giảng rõ cho chàng nghe, nhưng chàng quá
cố chấp, kiên quyết yêu cầu nhà kiến trúc
chỉ làm tầng thứ ba.
Nhà kiến trúc không có cách gì làm cho chàng hiểu rõ ñược, ñành phải ñình công việc cất
nhà.
** Chuyện nầy tỉ dụ: Ðệ tử của Phật không chịu cung kính thừa sự tam bảo,
thiết thật tu "giới, ñịnh, huệ", nền tảng tam học khởi tu, chỉ giải ñãi, biếng nhác, tưởng lầm là không cần phải trải qua tam quả: sơ quả Tụ Ðà Hoàn, nhị quả Tu Ðà Hàm, tam quả A Na Hàm, mà muốn lập tức chứng quả thứ tư là quả A La Hán, ñệ tự ấy cùng
với
phủ ông muốn cất tầng thừ ba ñều là hạng ngu si không tướng!
--- o0o ---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét