Khi nghiên cứu tư tưởng tôn giáo Trung Quốc, chúng tôi thường thấy rằng Phật giáo được truyền từ ngoài vào, mà sơ khởi là do các vị Hồ Tăng mang đến, họ sớm làm quen với phong tục tập quán Trung Hoa, thừa lúc xã hội đời Nguỵ |
Tấn Nam Bắc Triều hỗn loạn, họ liền dùng tư tưởng
kích động diễn biến, dần dần khiến Phật giáo thích ứng với hoàn cảnh
đương thời, bấy giờ họ đem hết năng lực để xiển dương tôn giáo của mình.
Tư tưởng Phật giáo Ấn Độ ở Trung Hoa trải qua một quá trình thoát xác,
sức ảnh hưởng của nó không dừng lại ở phương diện tư tưởng tôn giáo, mà
còn tác động đến tư tưởng của giới học thuật đương thời, cùng với tín
ngưỡng tôn giáo bản địa. Cho nên, về phương diện truyền bá, Phật giáo
dựa trên Nho giáo và tư tưởng của quần chúng. Mặt khác, cũng tiết xuất
từ văn hoá bản địa, mà hình thành bản sắc Phật giáo Đại thừa của Trung
Quốc.
Ở đây, có thể nói, ban đầu các Tăng lữ Phật giáo
đã lợi dụng diễn biến của xã hội Trung Quốc làm lay chuyển cách nhìn của
giới trí thức về tôn giáo, khiến tư tưởng Phật giáo hoà nhập với các
tôn giáo Trung Quốc, dựng nên một cơ sở tín ngưỡng tiềm ẩn bên trong.
Bản văn này nghiên cứu về tôn giáo quan trong các
triều đại Nguỵ Tấn, Nam Bắc triều. Phật giáo phải làm thế nào để khai
triển và tuyên dương tư tưởng tôn giáo của mình. Ở đây, chúng tôi muốn
nói bao quát diễn biến của Phật giáo sau khi truyền vào Trung Quốc trong
thời gian khoảng 100 năm.
I - NHỮNG NHÂN TỐ TƯ TƯỞNG HỌC THUẬT CHUYỂN BIẾN SAU TRIỀU ĐẠI ĐÔNG HÁN:
Sau triều đại Đông Hán, về phương diện tư tưởng có
sự thay đổi rất rõ ràng, sự thay đổi được biểu hiện ở đây là do sự cực
đoan của Nho giáo mà có sự tôn sùng Phật giáo và Lão giáo. Xét tận cùng
cội gốc đại khái không ngoài ba nguyên nhân sau:
1. Diễn biến kinh học của triều đại nhà Hán, từ khi
Hán Võ Đế cấm tuyệt sự lưu hành các tư tưởng học thuật khác, chỉ coi
trọng Lục kinh nên các học giả đều lấy việc học Kinh Thi làm trọng, phát
huy nghĩa lý, khảo cứu lời người xưa. Kết quả là: khi truyền đến đời
sau tất cả giáo nghĩa đều bị xáo trộn, xa vời nghĩa lý. Các học giả tuy
không muốn dùng nhiều lời để cắt nghĩa, nhưng việc bàn rộng nói dài là
điều khó tránh, nên bèn dùng lời hay ý đẹp để thuyết giải, làm mất đi
cái nghĩa lý căn bản. Nói năm chữ trong kinh văn mà luận đến vạn lời,
càng về sau càng dài hơn. Vì vậy, một đứa bé đọc một bài mà đến già mới
có thể biết được. Cứ theo học như vậy mà không thấy chổ sai lầm thì suốt
đời cũng chỉ vô ích. Đây là mối lo lớn của các bậc học giả. (xem Hán
thư nghệ văn chí lục nghệ tự)
2. Cuối đời Đông Hán, xã hội Trung Quốc tạp loạn,
quan lại chỉ lo việc tranh dành quyền lực bên ngoài, chức năng chính trị
của triều đình đã đến hồi tan rả, giặc khăn vàng nổi lên, Đổng Trác
biến loạn, ba nước tranh quyền, binh lính trở thành giặc cướp, dẫn đến
việc Bát vương tàn sát, Ngũ Hồ xâm lăng, những nhân tố này khiến nền
chính trị Trung Quốc hỗn loạn. Đức lễ giáo của Tiên vương không còn khả
năng kiểm thúc, kẻ sĩ lần lượt bỏ điều đã học, họ đều lo bảo toàn tánh
mạng, cho đến những kẻ tu theo đạo Lão Trang cũng bỏ bê, mai danh ẩn
tích, đàm thuyết viễn vông. Đây là xu hướng tất yếu phải đến.
3. Do ảnh hưởng của Phật giáo, nhà vua bắt đầu chú ý
đến Lão Trang, sự chú ý đó làm khởi lên phong trào học thuật huyền ảo,
khiến tất cả các học giả đều ham muốn nghiên cứu tinh yếu của Lão Trang,
họ thấy được sự nông cạn của Nho học, không bằng Lão giáo. Nhưng Lão
giáo thì lang bang bất định, không bằng Phật lý, nên bỏ Nho theo Lão, bỏ
Lão học Phật. Đây là sự hình thành xu thế phổ biến của tư tưởng học
thuật đương thời. Lão và Phật là sản vật của thời loạn lạc, do tinh thần
con người suy sụp, khổ đau, đẫn đến sự cứu vớt của tôn giáo càng trở
nên cấp bách. Nên lúc này, tư tưởng của Phật và Lão liền thay thế địa vị
của Nho gia.
Qua ba điểm trên, chúng ta có thể thấy được chuyển
biến của tư tưởng học thuật đương thời. Chung quy đều do vui với cái
mới mà bỏ đi cái cũ, cũng là do thời loạn lạc nhiễu nhương mà tạo thành.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét