Viết bởi Việt dịch: Pháp Hiền cư sĩ |
1/ Giới thiệu tóm lược về hành trạng của Bách Trượng.
Liên
quan đến sự tích và những nguyên nhân tạo nên hoạt động thuở sinh thời
của đại sư Bách Trượng, tư liệu lịch sử để lại quá hiếm, nay tham khảo
những thư tịch có quan hệ, tạm thời viết đôi nét giới thiệu về hành
trạng của Ngài, đồng thời có thêm những bình luận chung.
Đại sư tên Hoài Hải (720-814), người thuộc Phước Châu Trường Lạc, dòng họ Vương Thị. Thuở ấu thời theo mẹ vào chùa lễ Phật, Ngài chỉ tượng Phật hỏi mẹ rằng: “Đó là ai vậy?” Mẹ Ngài nói: “Phật đấy”. Ngài nói hình dung của Phật không khác với người đời, con nhất định sau nầy sẽ làm Phật. Hai mươi tuổi rời quê, làu thông tam học (1) nghe Mã Tổ khai đàn giáo hóa ở Giang Tây, tìm đến gởi lòng tu học, được Mã Tổ nhận làm thị giả.
Chỉ khi nào đàn tín
đem thức ăn chay đến, sư mới ra trương dù và đem dĩa đựng, mỗi lần như
vậy Mã Tổ lại đưa một miếng bánh lên, và nói với chúng tăng rằng: “là
cái gì?” Do vậy, dưới pháp hội của Mã Tổ, sư được truyền thụ trực tiếp
sự cảnh tỉnh của thầy, chẳng bao lâu liền chứng ngộ, sau đó đến trụ tại
Tân Ngô Hồng Châu cạnh núi Đại Hùng, vì ở đây lô nhô đá dựng hiểm nghèo,
nên sư có tên là Bách Trượng, học giả bốn phương tụ về tham học.
Sư
chẳng những là bậc chủ soái của Tông môn, Thiền Tông sau nầy, cùng với
sức ảnh hưởng của sư đối với toàn bộ Phật giáo, càng lúc càng sâu rộng. Ở
đây, bản văn chỉ nghiên cứu và trình bày một sự kiện trọng yếu nhất, đó
là hình thái kiến lập Thanh quy trong chốn tùng lâm của Bách Trượng.
Thiền
Tông truyền thừa từ Đạt Ma đến lục tổ Huệ Năng, giáo pháp trực chỉ đã
thành là ngọn cờ tối thắng. Mã Tổ lấy gậy và tiếng hét để hiển thị cơ
dụng, kẻ nào lanh lợi vẫn được đi vào (pháp môn dành cho bậc thượng
căn). Tuy hét là biểu tượng huyền cơ, nhưng Ngài cũng lấy lời bình
thường để mà chỉ dạy. Hình thức khai tâm như gậy, hét hay ngôn từ, tất
cả điều đó đều mang ý nghĩa siêu nhiên: Đoạn dứt vô minh, tận trừ tình
thức của người, không cho phép ta nghĩ bàn suy luận. Một vài điều như
vậy đã nói lên cuộc cách mạng vĩ đại về phương pháp giáo dục của Thiền
tông. Cuộc cải cách nầy, một mặt vì có sự dị biệt của các nhà Kinh Luận
qua giáo thuyết, một mặt vì bộ phái Tỳ Ni (Luật bộ) với nghiệp hành quá
tinh tế cẩn trọng, (tạo nên) những khoảng cách (với quần chúng). Thiền
Tông phát triển theo từng ngày, nên có vô số Tăng lữ ủng hộ nó, do vậy
trong thống lãnh Tăng vụ, trong việc tham học pháp sự mang tính đặc thù,
nó phải phát sinh những phương thức mới và những thích ứng cần thiết,
đó chính là sự phát triển thực tế có thể thấy được. Thế thì có việc
tương truyền “Mã tổ dựng tùng lâm, Bách Trượng xây thanh quy”
như chúng ta đã biết. Sự việc này quả là một sự kiện trọng đại của Phật
giáo, và tiềm năng của công sức ấy luôn tồn tại. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn sáng
lập pháp môn Đông Sơn, tuy mang ý nghĩa là đạo tràng Thiền Tông chuyên
môn, thế nhưng vẫn tôn trọng luật chế. Khi tông phong của Mã Tổ được lưu
thông thuận lợi, thì việc thiết lập phong phú của Thiền sát (pháp chặt
dứt nhanh chóng vọng tưởng của Thiền) vốn có nguyên nhân của nó. Bách
Trượng nuôi chí lập thanh quy, quả là bậc tuấn kiệt biết hợp thời vụ.
Văn bản “Cổ Thanh Quy Tự” của Dương Úc đời Tống viết rằng: “Thiền Sư
Đại Trí (tên Thụy), Bách Trượng từ Thiếu Thất mà sáng lập Thiền Tông,
rồi từ Tào Khê đến nay, phần nhiều (các Tăng chúng) ở trong chùa có luật
chế rõ ràng”.
Mặc
dù lúc bấy giờ có đặt ra (viện) mang tính chuyên biệt, nhưng trong việc
thuyết pháp trụ trì vẫn chưa phù hợp với chế độ luật nghi, nên Bách
Trượng thường ưu tư đến vấn đề ấy rồi Ngài tuyên thuyết: “Đạo của
Phật Tổ, muốn bố hóa rộng khắp, thì cánh (của nó) phải sảy bay nguyên
vẹn khắp biên tế vị lai không diệt mất, há có thể tùy tiện đi cùng với
các bộ phái A Phiệt Ma sao?” (2)
Truyện về Bách Trượng trong Tống Cao Tăng truyện của Tán Ninh viết:
“Có
người nói: Luận Du Già, kinh An Lạc đều là những bản văn giới luật của
Đại thừa, sao không thể y theo nhỉ? Hải nói: Ta chắt lọc tinh hoa từ
trong Đại thừa, Tiểu thừa mà đặt ra quy cụ để đưa vào thiện vậy. Thế
nhưng quan điểm nầy được phát minh không noi theo luật chế, chỉ lập
riêng cho Thiền.”
Tiếc
thay, văn bản của chính mà Bách Trượng đã soạn thảo và hiệu đính nay
lại không còn, nếu còn, thì chỉ có thể tìm thấy đôi điều trong “Sắc Tu
Bách Trượng Thanh Quy” được triều đại nhà Nguyên bảo lưu, còn toàn bộ
nguyên tác thì vô phương tìm kiếm. Ở đây, tôi dựa vào bài Tự ngôn của
bản văn Dương Ức Cổ Thanh Quy, và truyện viết về Bách Trượng trong Tống
Cao Tăng Truyện của Tán Ninh, qua đó chỉ có thể dẫn ra một cách khái
quát nội dung quan trọng về vấn đề Thanh Quy trong chốn Tùng Lâm mà Bách
trượng đã xây nền tảng; đó là :
1.1-
Khi vào tăng đường, bất kể trình độ (tu chứng, học tập) thấp cao, tất
cả đều tập trung vào một chỗ để tham học. Trong Thiền đường bố trí một
cái giường được gọi là “trường liên sàng - giường dài tiếp liền”, mọi
người đều sử dụng nó để nằm hay ngồi tọa Thiền.
1.2- Trụ trì gọi là Trưởng lão, ở tại phương trượng.
1.3-
Không xây Phật điện, chỉ có cây cối là Pháp đường. Trụ trì hay trưởng
lão đăng đàn thuyết pháp, hoặc nêu ra những phạm trù trọng yếu của tông
môn cho hành giả tham học, những sự kiện như vậy đều được tiến hành ở
đây.
1.4- Thường hạnh là trên dưới cùng chung sức thỉnh pháp, cùng lao động tập thể theo quy định, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp.
Đây
là một sự kiện nảy sinh độc đáo, đúng là cuộc sáng tạo trong xây dựng,
và là cơ sở kinh tế duy nhứt trong chốn Thiền lâm vào thời ấy. Có thể
cho rằng, bốn điều khoản vừa nêu ra là cốt tủy của Thanh Quy Bách
Trượng. Những điểm như vậy, đã đáp ứng được sự phát triển và những đòi
hỏi trong tình hình mới của Thiền tông. Chế độ nầy là vì phục vụ cho
Thiền tông, lý tính và trí tuệ không thể so sánh của Thiền tông có thể
hiển lộ được hay không, chính là duy trì nhân tố quan trọng của sự sáng
tạo chế độ nầy, có thể đối kháng với kinh luận đã giảng truyền, và có
thể chiến thắng được quyền uy cực lớn của Luật tông, điều đó đâu thể dễ
dàng? Bách Trượng chẳng những làu thông kinh luận, mà sự sáng tạo lại
siêu quần, cộng với công phu hành Thiền vĩ đại của Người, đã tạo nên sự
cảm triệu phi thường, do vậy càng dễ dàng xúc tiến công việc của mình.
Truyện viết về Bách Trượng trong Tống Cao Tăng Truyện của Tán
Ninh có nói rằng: “Một lần chống trái lật ngược lại các chế độ và hệ
phái Tỳ Ni, Thiền Tông trong thiên hạ tợ gió xô cỏ rạp, Thiền môn một
lối độc hành, được như thế khởi đầu do Hải (Bách Trượng) vậy.” Đấy là
điểm luận bàn mang tính khẳng định.
Thiền
học mà đại sư nêu giữ, thực sự kết hợp khắng khít với sinh hoạt đời
thường, Phật sự phải được nghiệm chứng trong cần lao thường ngày như
vậy. Tinh thần lạc quan của Thiền tông tích cực nhắm tới, là sự biểu
hiện toàn vẹn ở việc lao động thực tế, điều nầy cùng với quan điểm dẫn
đạo được đại sư nêu lên, kết hợp cùng việc rèn luyện chính bản thân của
hành giả là không thể tách rời. Thường khi lao động, Sư là người làm
trước hết, chúng chẳng cam lòng, lén giấu nông cụ để thỉnh Sư nghỉ ngơi,
Sư nói: “Ta vốn vô đức, phải cực cho người sao?” Khi nào tìm kiếm khắp mà không gặp nông cụ, thì khi đó Sư bỏ ăn. Do vậy mới có câu “Một ngày không làm, một ngày không ăn” lẫy lừng khắp thiên hạ.
Năm
thứ 9, Đường Nguyên Hòa, năm Giáp Ngọ, ngày mùng 7 tháng Giêng, Sư thị
tịch, thọ thế 95 tuổi. Nguyên Niên Trường Khánh sắc Tứ tên thụy Thiền Sư
Đại Trí. Trần Hủ làm pháp đề danh. (Xin xem Toàn Đường Văn, quyển 466).
2/ Nhân duyên đại ngộ của Bách Trượng.
Có thể nói nhân duyên đại ngộ của Bách Trượng là một sự kiện lớn đầy hiển hách trong tông môn. Nay
dựa vào tác phẩm Bách Trượng Ngữ Lục và các bản văn ghi chép những gì
có tương quan đến Ngài, rút ra nguyên văn, nhằm trình bày lại cho rõ
ràng hơn.
2.1-Thoại đầu Dã Hạc.
Sư
làm thị giả cho Mã Tổ, trải suốt ba năm. Trong suốt ba năm nầy, cơ hồ
tai nhuần, mắt nhuộm, huống chi Mã Tổ lại là bậc quá khéo dạy người.
Ngày nọ, đi cạnh hầu Mã Tổ, có một bầy dã hạc bay qua, Tổ hỏi: “Là cái gì?” Sư đáp: “Dã Hạc.” Tổ nói: “Đi xứ nào?” Sư đáp: “Bay đi qua.” Tổ liền vặn mũi sư. Đau quá nghẹn cả tiếng. Tổ nói: “Lại nói bay đi qua à.” Sư chợt tỉnh dưới lời ấy.
Kinh
hành gặp Dã Hạc, thong dong bay ngang qua, cảnh trí cũng rất bình
thường, Mã Tổ sao chẳng biết, nhưng cứ muốn nêu ra hỏi thị giả. Chính
câu hỏi đó mà trạng thái tỉnh thức được khởi sinh, đấy là tấm lòng sâu
nặng của cha đối với con. Đúng là cảnh giới của một sát na tâm đột hiện
(làm đảo lộn mọi ý niệm), chắc chắn không phải cảnh giới mắt thấy tai
nghe thông thường rồi vậy. Thế thì Tổ (liền vặn mũi sư), quả nhiên (cái
sát na tâm ấy) hiện ra một cách không ngờ, Sư (đau quá thất thanh), dẫu
vậy nhưng vẫn còn chút hơi, Tổ nói: “Lại bay ngang qua à”, Ố la la! Thật
là hiếm có nhân duyên như vậy, dưới lời ấy, Sư (tỉnh) ra, nhưng tỉnh
cái gì cơ chứ? (mượn lời giải thích của Bàn Sơn: Ánh sáng không chiếu
cảnh, thì cảnh chẳng thể còn), Bát Nhã đã hiển lộ một cách sinh động rồi
vậy. Nhiệm vụ tất yếu khó dường ấy việc tiêu dung nó vẫn chưa trọn vẹn.
Xin xem dưới đây vị thị giả tên Hải nầy phải trải qua quá trình tiêu
dung trọn vẹn cảnh giới tỉnh ngộ như thế nào:
Thị
giả về liêu của mình đau đớn khóc lớn, (Xin mượn lời của Mục Châu:
“Việc lớn chưa rõ như tang chị ruột”). Bạn đồng sự hỏi rằng: “Ông nhớ cha mẹ chăng?” Sư đáp: “Không.” Hỏi: “Bị người mắng nhiếc chăng?” Sư đáp: “Không.” Hỏi: “Thế thì cái gì cơ chứ?” Sư đáp: “Chót mũi tôi bị đại sư vặn đau mãi không hết (chỉ mình tôi biết).” Đồng sự hỏi: “Vậy thì tại sao ông không vừa ý?” Sư đáp: “Ông hỏi lấy Hòa thượng đi (dám ngược ngạo vậy sao?” Đồng sự đến hỏi đại sư: “Hải thị giả vì sao không vừa ý, đang khóc trong liêu, bẩm Hòa thượng dạy cho.” Đại sư nói: “Hắn cũng biết đấy, ông tự mình hỏi lấy y đi” (kề tai thổ lộ lời thân, sao có được đến người thứ hai.) Đồng sự về liêu hỏi: “Hòa thượng nói ông cũng biết, dạy tôi tự đến hỏi ông.” Sư bèn cười ngất (quả đúng cái được gọi là: nhà nghèo mà rạng rỡ niềm vui bất tận). Đồng sự hỏi: “Vừa rồi khóc, sao giờ lại cười thế?” (người ngoài sao biết được) Sư đáp: “Mới vừa khóc giờ cười thế thôi.”
(Người xưa so sánh trạng thái này như là Bồ-tát Thường Đề đắc Bát nhã,
cười suốt đến giờ không dứt). Đồng sự đờ người ra (một người có việc
trăm nhà hốt hoảng, cối đá đội đầu một cuộc múa may.)
Dưới những câu nói quan trọng đó, người viết chắp vá thêm đôi lời, để khỏi bàn tán loanh quanh.
“Vừa
mới khóc, giờ cười thế thôi”, trả lời như vậy tức là đã tiêu hóa cảnh
giới giác ngộ rồi, nhiệm vụ tất yếu cũng được liễu giải, nhưng vẫn phải
chờ gặp người mà đã sinh ra ta, nhìn cho tận mặt, việc ấy phải cần gặp
nhau cái đã, hãy xem ông ấy gặp Mã Tổ như thế nào đây?
Ngày sau, Mã Tổ đăng tòa, chúng vừa mới nhóm, sư ra cuốn chiếu lại, Tổ liền xuống tòa, sư theo vào phương trượng. Tổ hỏi: “Ta chưa nói gì sao ngươi cuốn chiếu?” Sư đáp: “Hôm qua bị Hòa thượng vặn mũi đau quá.” Tổ hỏi: “Hôm qua ngươi để tâm vào đâu?” Sư đáp: “Hôm qua chót mũi lại chẳng đau.” Tổ nói: “Ngươi rõ chuyện hôm qua lắm.” Sư đảnh lễ lui ra.
Cửa
pháp yếu của Mã Tổ, ở đâu cũng vì người mà mở, mặc dầu ông ấy “Người
ngồi xổm trên đá của cửa sông U Châu”, bạn cũng biết sự tình trong đó
vậy. Dòng thức chuyển lưu lãng đãng, thường chảy mãi, làm sao tiêu được
mắt Bát nhã xoe tròn. “Sư ra cuốn chiếu lại”, tâm hành cái gì đấy? Chẳng
nên bày đặc xét suy, giống như người nắm đúng được thông tin. “Tổ bèn
xuống tòa”, đúng là: “Đầu cần tơ nhợ động, được cá vảy gấm mắc câu”. Sư
cuốn chiếu lại, không cần hỏi Mã Tổ giữa đại chúng mà đến tận phòng
phương trượng mới hỏi, đấy là bàn luận đến “người trong đó” cần phải như
vậy thôi. Ví như bảo vật vô giá đã trao, kẻ sử dụng vốn biết rành chân
giá trị tại thị trường. “Hôm qua bị Hòa thượng vặn đau đầu mũi”. Quả
vậy, quả vậy, đau đó vẫn còn đây. “Hôm qua ông để ý đến gì?” Tất nhiên
là muốn kiểm tra sự gút mắc có quan hệ đến đại sự cho rõ. “Hôm nay chót
mũi lại chẳng đau’, kẻ vượt cửa đi. Thầy trò gặp nhau kiểu nầy, trường
(cuộc) công đức ấy đã viên thành rồi vậy. Thậm chí, “Hôm qua ông để ý
đến gì?”, một đoạn như vậy thôi, thế là: Phát vô thượng tâm, hàm chứa
nội dung đốn ngộ một cách vẹn toàn, chỉ tấm lòng bình thường mà biết rõ
việc hướng lên (chỉ bình thường tâm là biết đạo), tức cũng gặp đúng
duyên chạm phải. Cho phép nói như thế nầy với những ai mới phát tâm học
đạo (trong đó có cả tôi) rằng việc đại ngộ của Bách Trượng chẳng can dự
gì đến ông ấy (Mã Tổ) cả.
2.2- Lại tham thoại đầu.
Bách
Trượng ngộ thì ngộ đấy, nhưng mà trăm thước đầu cần (câu) lại tiến thêm
bước nữa, ở đây vẫn còn có nhân duyên đại ngộ (tái tham). Sư lại tham
phỏng, đứng chờ kế bên. Tổ nhìn phất trần treo góc giường. Sư nói: “Dừng (cái) đấy ngay, bỏ dụng đấy.” Tổ hỏi: “Ông sau nầy dụng chi khải hóa cho người?”
Sư nắm phất trần dựng dậy. Tổ nói: “Dụng đấy ngay hãy (bỏ) dụng đấy.” Sư treo phất trần về chỗ cũ. Tổ hét một tiếng rền, mãi đến ba ngày Sư vẫn ù tai.
Công
án “Tái tham thoại” nầy nổi tiếng nhất trong Thiền tông. Gay gắt như
mặt trời đỏ, ánh sáng quyền uy áp đảo người. Vì Bách Trượng mà Mã Tổ
hiển thị đại cơ đại dụng, Bách Trượng cũng đắc đại cơ đại dụng của
người, cha con chung lối, con cháu truyền nhau. Tông Lâm Tế lấy đó làm
cương yếu vô thượng để truyền thừa về sau, phải nhìn thấy được ngay!
Một ngày, Bách Trượng nói với chúng rằng: “Phật pháp là việc lớn, khi xưa lão tăng bị Mã đại sư hét cho một tiếng, ba ngày vẫn còn ù tai.” Hoàng Bá nghe nêu ra sự việc ấy, bất giác thè lưỡi, nói rằng: “Nay nhân Hòa thượng nêu lên, được thấy đại cơ đại dụng của Mã đại sư.” Hoàng Bá tiếp nhận ngay sự ấn khả của Bách Trượng.
Bách
Trượng có riêng một pháp tử tên là Quy Sơn, thừa pháp của Quy Sơn là
Ngưỡng Sơn, cả hai cũng đã từng luận bàn ngợi khen công án “Tái tham
thoại” nầy. Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: “Nhân duyên Bách Trượng tái tham Mã Tổ, ý chỉ của hai vị tôn túc nầy như thế nào?” Ngưỡng Sơn nói: “Đó là hiển lộ đại cơ đại dụng.” Sơn nói: “Đúng vậy, đúng vậy.”
Mấy
lão già đần độn ấy, đều chung huyết thống, đều nói “Tái tham thoại” là
hiển đại cơ đại dụng, truyền mãi về sau, lời cũng y như vậy. Tóm lại, cơ
dụng phải hiểu như thế nào? Thật ra cơ dụng chính là phương tiện hoạt
thoát, thuộc tính chất lâm thời, trực tiếp điều khiển nó, nó liền ngay
đây mà thể hiện ra (khởi tâm tức hiện) (3). Năng lực trơn nhạy của nó
không bị vướng bất cứ tình huống nào, chính là có chỗ chỉ ra. Trạng thái
nầy rất khó luận bàn, nhưng lại khiến cho ta được mở ngay con mắt tuệ,
cái quý của nó là ở chỗ nầy. Nếu không có trí Bát nhã. không có ý Tổ
linh hoạt, phương tiện vốn không rời bản thể, bản thân không đủ tầm
nhìn, thì lại càng khó nhận thức được nó.
Khi
Tông Lâm Tế hưng thịnh, những bậc kế thừa xa nhất của tông nầy, chẳng
hạn các vị thiện tri thức Thiện Thiệu Phần Châu, Uẩn Thông Thạch Môn
(luôn cả dòng pháp Tỉnh Niệm Thủ Sơn), những bậc thầy như vậy đều có đề
cập đến Công án “tái tham” đó. Phần Châu nói: “Ngộ được thì nghỉ, lại
nói chi ba ngày ù tai.” Thạch Môn nói: “Nếu không ù tai ba ngày, sao ngộ được như vậy”. Đông Lâm thường nói với tất cả chúng rằng: “Đang
nói chẳng sợ cắt lưỡi, ngay lò chẳng ngại lửa bùng. Phật pháp há có thể
quanh co theo người (cho vừa lòng người). Nay Đông Lâm vào tận hang
rồng đoạt châu đi vậy. (Ý nói Đông Lâm đã sở đắc trọn vẹn tinh yếu của
huyền cơ diệu dụng.) Đại Trí Bách Trượng không thể không ù tai ba ngày,
trách chi Phần Châu, Thạch Môn đủ cả hai cái gã ngu si, chỉ ba lão ấy có
hội ngộ hay không?” Lương Cữu nói: “Tổ bù không đủ, hại đám con cháu con.” Tuyết đậu của Tông Vân Môn đang thời hưng thịnh cũng nêu rằng: “Khi xưa chư Thiền đức quả khác thường, giờ đây quá nhiều bè phái bày ra, nhưng xét căn bản của họ thì quá ít”.
Tóm lại, Bách Trượng đại ngộ dưới tiếng hét, cũng không có đầu mối sao?
Thế nhưng, giống như đao điêu, lung tung ngư lỗ (4), nếu là lão Hán
sáng mắt, còn gã mắt mù dù một điểm cũng chẳng xong. Chỉ như Mã Tổ nói
rằng: “Người sau nầy dụng chi giáo hóa người?” Thì Bách Trượng
mới dựng cây phất trần dậy, lại làm như loài côn trùng khống chế cây
cối, cùng lúc lại làm như vừa nhai lại vừa nhả bỏ, ba ngày ù tai các
người ai biết vậy? Tinh luyện vàng một cách toàn diện, màu sắc phải
không biến thái. Vả lại, Chân Tịnh có khắc tụng văn về “Tái tham thoại đầu” rằng: “Tùy
thuận thế gian chân bước chắc, mà ánh uy thần chẳng hay hiển lộ. Bỗng
nhiên, hét một tiếng ù cả hai tai, chao ôi! Mắt mở mặt mày Hoàng Bá” Vẫn còn nữa, Ngộ Tân Tử đem lời Tuyết Đậu nêu lại đặt thêm cho nó một vấn đề: “Vân
Nam nầy (Ngộ Tân tự xưng như vậy khi ở núi Vân Nham) muốn hỏi Tuyết Đậu
rằng, đã tinh luyện vàng toàn diện như vậy phải không đổi sắc, vì sao
mà lại ba ngày ù tai nhỉ? Mọi người sẽ biết gì, khi mà trước đây ngựa đổ
mồ hôi, (hản mả) chỉ cần luận lại cũng cho phép thay được công lao”
Những
gì liên quan đến Công án “Tái tham thoại đầu” này, vừa trích dẫn ra đã
là một chuỗi cổ phẩm. Người viết thấy chẳng cần giải thích thêm, xin
người đọc lưu tâm. Có người cho rằng, ba ngày ù tai chẳng phải là cảnh
giới “không đi nay đến chặt dứt trước sau” ư? Điều ấy cũng đâu có gì đặc
biệt, trong một vài ngữ lục lại chọn ra. Có thể việc chọn lựa nầy chẳng
có liên quan gì, nhưng cái cần thiết là đừng nên so sánh một cách chung
chung. Tóm lại, Mã Tổ hét một tiếng chấn động uy thần, Bách Trượng đã
ba ngày vẫn ù tai, vừa đủ điếc. “Âm tiêu tịch mặc về đâu nhỉ? Ngoài song trời lặn bóng ngày nghiêng”, có nhìn rõ bóng ngày nghiêng hay chưa? Con mắt của người điếc hẳn nhìn được chính xác đấy!
Mã
Tổ sử dụng gậy (đánh) hay bằng một tiếng hét để biểu tượng huyền cơ
diệu dụng, có thể khiến người tham học ngộ được như vậy. Nói chung giống
như là Hắc Tất Dũng (5) phóng hào quang, quả thực là phương tiện tối
thắng của pháp môn đốn giáo, dù Tổ hay Phật ngàn xưa cũng phải châu mày.
Bách Trượng là đứa con trai đầu lòng của Mã Tổ (ý nói đệ tử chánh
truyền đầu tiên) được đích thân Ngài giáo dưỡng, rốt ráo giải thoát hai
chướng ngại (6) (tận thoát hai chướng ngại), không còn một vết in nào
trong dòng thức (một điểm lậu hoặc cũng không còn). Bách Trượng hiểu
được trọn vẹn trí Bát nhã linh diệu, nhiếp thâu ý Tổ linh diệu qua biểu
hiện của gậy và tiếng hét. Biết được cảnh giới vi tế một cách sâu xa.
Thể hiện hạnh tự tại (phát thú hạnh tự tại), dựa trên pháp Phật lưu
truyền và chư Tổ, thấu suốt huyền cơ diệu dụng của trí tuệ thực chiếu,
chỉ có Bách Trượng, là người thủ đắc toàn diện như vậy mà thôi.
Sau
Bách Trượng là Hoàng Bá, sau Hoàng Bá chính là Mục Châu, Lâm Tế, cả ba
đều là những đại tông sư của Tông Lâm Tế. Đặc trưng của Hoàng Bá là sử
dụng nhiều cú nghĩa để dạy người, cũng có khi hiển thị ra bằng gậy đánh
và hét. Cho đến Mục Châu, sự thể hiện bằng gậy không mang hình thái “uy
thế”, mà nó được thể hiện bằng tính u mặc, lắng sâu. Bốn phạm trù Sinh,
Sát, Tung, Đoạt và Thiền phong cao siêu đắc thắng của Ngài tương ưng một
cách nghiêm mật. Đến Lâm Tế, dừng ngay than vãn luận suy! Sấm sét Bát
nhã rền, đánh vang chuông đồ độc (7), hiển thị trọn vẹn tính hoạt thoát
của huyền cơ diệu dụng qua gậy, và tiếng hét, trí Bát nhã tỏa rực khắp
nơi, dứt mệnh căn lại khen chính mệnh, dứt tuyệt thức tình càng ngợi ca
diệu trí, quả chưa từng có vậy. Ba bậc thầy trên khôi phục và phát triển
Thiền đạo của Mã Tổ và Bách Trượng, (các ngài) ví như hành tướng uy
dũng của Rồng Voi (Long Tượng), lũ ngựa lừa không thể kham cho được.
Tông Lâm Tế căng tròn bầu sữa pháp, phẩm chất khôn dò, từ pháp môn trực
chỉ năng lực siêu việt bắn thẳng ra, không pháp nào có thể vượt trội
hơn, đích thực là nó có căn nguồn của nó.
Ở
đây đề cập đến phương pháp giáo học bằng gậy và tiếng hét, nhằm minh
định phương pháp ấy là một cuộc cải cách vô cùng to lớn, nó trân quý đến
độ khó có gì có thể quý hơn. Chúng ta sẽ trở lại ý nghĩa hay xu hướng
có tính chỉ thị bằng gậy và hét (qua phương pháp giáo dục đó), trong bản
văn viết về Tông Lâm Tế.
3- Khai Thị quan trọng trong tiếp cơ.
Một
đoạn lớn ấy được kể như là sự mô tả những khai thị quan trọng trong
tiếp cơ của Bách Trương, điều nầy cũng có nghĩa là Thiền yếu của Ngài
đang thể hiện tại đây. Do vậy cần phải hiểu là nếu từ bỏ công án thì lại
không thể bàn luận đến (cái gọi) là Thiền yếu nào khác. Luận bàn đến
điểm này, nếu nằng một hình thức khái quát để có thể thấu triệt nó, thì
chẳng khác nào thưởng hoa trong cảnh sương mù, rốt lại bị một lớp ngăn.
Nếu chẳng dựa vào công án để hút lấy tinh hoa của Thiền, cái khả năng đó
chưa thấy được bao giờ. Bây giờ chỉ chọn 10 công án của Bách Trượng.
Mỗi công án đều có vấn đề trọng tâm cần giải quyết. Đã vậy, phải phân ra
từng đoạn, nói đúng như quy luật của chúng.
3.1- Không gặp, nếu gặp trình cho hòa thượng.
Ở
đây, chưa nói đến công án tiếp cơ (ứng vật tiếp cơ) của Bách Trượng,
đầu tiên chỉ nêu lên tắc nầy, để nói lên như thế nào là sự đối ứng của
Ngài với Mã Tổ. Điểm trọng yếu của nó là nhằm giải quyết vấn đề “biết
rõ” (thấu triệt hiện hữu-tri hữu) (8) về sau của Thiền Tông, vấn đề duy
nhứt nầy về (hữu) ứng xử ra sao?
“Một
ngày kia, Mã Tổ hỏi sư (Bách Trượng): “Chỗ nào đến?” Sư đáp: “Sau núi
đến.” Tổ hỏi: “Gặp người nào không?” Đáp: “Không gặp.” Tổ hỏi: “Vì sao
không gặp?” Đáp: “Nếu gặp tức trình cho Hòa thượng rồi.” Tổ
hỏi: “Chỗ nào được ra tin tức nầy.” Đáp: “Tội Hoài Hải quá!” (Những văn
bản khác cũng viết tên Ngài như vậy). Tổ nói: “Tức là lỗi của lão Tăng.”
Tắc
công án nầy xứng đáng là chủ luận cương yếu của Tông Tào Động. Tiêu
điểm Hồi Hổ của Tông Tào Động, về sau đặt trọng tâm vào vấn đề “biết rõ”
(tri hữu) hay nhận thức thực hữu, và trí tuệ quán hành về “hữu” cần ứng
xử như thế nào. (Lạc) Dược sơn có nói: “Ta nay vì ngươi nói lời này,
hiểu ra cái khuôn mặt ngàn đời không mắt tai (mũi lưỡi) lạ thường của
tuyệt ngữ vô ngôn”. Chí lý thay lời ấy! Bách Trượng từ sau núi lại, đã
trãi qua cái (trạng thái) tịch tĩnh trực hiện ngay đây. chớ chẳng phải
là một chuyến chạy rong (chạy rong qua cái trống không). Bản thân của
Bách Trượng tuy là biêt rõ (nhận thức được thực tại), hiểu được nó,
nhưng vì nó không có mặt mày tai, mắt, (mũi lưỡi…) Ai mà có thể hội ngộ
cùng? Mã Tổ liền hỏi ngay một câu rốt ráo: “Gặp người nào không?”. Vì ý
sẵn trong tâm, do vậy ứng đối ngay “không gặp”. Trả lời như vậy, tức là
hiện ra Trí tuệ “Nếu chẳng biết nó, thì làm sao mà giải được như thế.
(động sơn ngữ)”. Mã Tổ kích động, ngợi khen Bách Trượng, nhưng tùy lúc
nhắc nhở cái tinh yếu chung (cái tinh hoa phổ quát), lại gút một câu hỏi
nữa. “Vì sao không gặp? Bách Trượng đã biết rõ khuôn mặt lão già nua
ấy, lão già ấy từ xưa đến giờ không nhà mà ở được, đã vậy, há có thể gọi
ra chăng, không biết rõ (biết có) tức là không từng mất, một niệm thuần
nhiên, tuyệt dứt đối đãi nhị nguyên. Vì cái bất tri quá tuyệt diệu, nên
Bách Trượng đáp theo: “Nếu gặp tức trình cho Hòa thượng rồi.” Trả lời
như vậy tức là hiển ra trí tuệ “Nếu chẳng biết rõ, làm sao mà giải lý
được như thế” (Động Sơn ngữ). Đến thế mà Mã Tổ còn chưa cho phép, mênh
mông đến tận bây giờ, dù trân quý chỗ cảm nghiệm ấy, nhưng đột nhiên lại
hỏi phủ đầu “Chỗ nào được ra tin tức nầy vậy?- (Đâu mà có Tứ niệm xứ
tức nầy đến vậy?)” Bách Trượng gặp câu hỏi nầy, tự mình biết là đã tổn
thương rồi cái đó, do vậy đáp rằng “Hoài Hải tội lỗi lắm”. Chưa hẳn là
Mã Tổ tự nói “Tức là lỗi của Lão Tăng”. Việc khởi từ ông ấy và dây trói
cũng ở trong tay ông. không chỉ làm tổn thương cái bổn lai không diện
mạo, mà còn buộc Bách Trượng nói ra (cái đó) nữa, do vậy lão già cũng
thốt “Tội Lão Tăng”. Cả hai cha con ông ấy đều có kỹ thuật sát thương.
Với chúng ta, cái chắc chắn nhất là hai chữ tội quá (lỗi lắm), còn với
cảnh giới cảm nghiệm, vừa biết rõ cũng vừa không biết rõ, tóm lại còn
phải xem chừng (khéo giữ gìn). Trong kinh Bát nhã chỗ nào cũng nói “Khéo
hộ niệm”, nghĩa là cảnh giới cảm nghiệm trí tuệ (xúc chứng trí tuệ).
Hành
giả phải lấy diệu tuệ khéo làm ý thức bảo chứng, không khéo giữ gìn tức
thành tội lỗi, (nói cách khác khéo giữ gìn hay thầm hộ niệm không cho
hiển lộ), phải tự mình biết cái tội lỗi của việc xúc phạm, tội tức phi
tội chuyển hóa thành hộ trì vậy. Đó chính là điểm giáo huấn đời đời tăng
thắng (về sau) của Tông Tào Động. Pháp vị của tắc công án nầy quá nhiệm
mầu để ta giữ gìn mà tự mình hưởng lấy. Tính chất uyển chuyển cơ dụng
của cha con ông ấy, liên kết với nhau một cách diệu kỳ (đến độ) ta khó
thể nhận ra đâu là chính vị, cái then chốt đó hàm chứa công năng cực
lớn. Với tắc công án duy nhứt nầy, nó đã thành là hệ thống cương yếu của
Thạch Đầu Dược Sơn. Do vậy, Thiền đạo được họ thể hiện và hộ trì, bao
quát hết tất cả.
3.2- Công án không đói (bất đạo cơ).
Ở đây nêu lên những gì đã được Bách Trượng khai thị để tiếp cơ.
Sư nói với chúng rằng: “Có một người luôn không ăn mà vẫn không đói, có một người ăn hoài mà không no.”
Tâm
yếu nầy được Bách Trượng nói ra là để dạy chung cho những ai mới phát
tâm cầu học. Chủ yếu là chỗ thi thiết phương tiện rốt ráo đưa đến trạng
thái “biết rõ” hay tri hữu, dựa vào đó để mà kích phát cái phận sự tất
yếu hiển bày.
Ưu
điểm của tham Thiền là (trực nhập) không so sánh phỏng chừng. Có người
cho rằng: Câu đầu (của công án ấy) nếu chẳng phải là thuyết đến tính
chất của bản hữu thì là gì, (tính chất của bản hữu), vì tự tính thanh
tịnh trạm nhiên bất động, nên ông ấy chẳng chịu ăn. Do vậy, nói rằng: “Mãi không ăn vẫn không đói.”
Câu sau nếu chẳng phải nói đến cái tâm hiện tiền thì là gì nữa. Bốn
cách ăn trên đời này, cái tâm hiện tiền đều dùng được, đó là: đoàn thực,
xúc thực, tư thực, thức thực-(10). Do vậy nói: “Ăn hoài cả ngày vẫn
không no.” Đoạn lý giải trên nhằm đánh vào cái phỏng chừng so sánh, bạn
tự cho mình phỏng đoán đúng được nó, nhưng ngay nơi giáo ý, cái cứu cánh
ấy có quan hệ gì đến cái phận sự tất yếu mình chăng? Và như vậy có suy
ra được cái trạng thái Minh tâm Kiến tánh chăng? Thật nghìn trùng xa
cách quá!
Từ
xưa đến giờ ai cũng nói tâm nói trí, chuyển dịch mê mờ liền ngộ nhập.
Thiền Tông chẳng phải như vậy, sao bằng Bách Trượng nói lên đôi lời từ
mẫn thiết thân-Mãi không ăn cũng luôn no, cả ngày ăn hoài vẫn đói - Càng
nghe ra càng có đôi điều nương tựa. Có người cho rằng, cái ăn của Bách
Trượng nói là dụ ngôn, tâm tính mới là chân pháp thiết thân. Có người
lại cho rằng, tâm tính mới là dụ ngôn, dù giả thuyết có hợp lý thế nào
đi nữa, thì ai mà biết tình cảm thân thiết của người? Do vậy “ăn” mới là
chân sự thiết thân, nhấc cây trụ lên rồi, mặc cho nhấc như vậy đi!
(Nghĩa là đã tranh biện khuấy động rồi, cứ khuấy động lên đi.) Nếu ông
bạn của chúng ta tùy tiện ăn, thì hai người ấy chẳng ăn, hóa ra có đến
ba người, vậy thì càng làm cho người mê muội sao? Chẳng biết cứu cánh
của Bách Trượng nói là một người hay là hai người? Chỗ nầy khó mà dứt
điểm được, cái việc khó định duy nhứt đó, mới thật sự là tấm lòng từ mẫn
thân thiết của người. Hai câu nói ấy được Bách Trượng thuyết, cái ý
chính là khiến ta chịu khó “tầm tư” (tầm tư-là thuật ngữ dùng cho Thiền
pháp của tông môn, ý nghĩa của nó sẽ được trình bày ở hai bản văn viết
về tông Quy Ngưỡng và Tào Động).
Về
sau Động Sơn lập nên hệ thống giáo pháp Ngũ Vị Công Huân (chính là hệ
thống giáo học Ngũ Vị Công Thần), hệ thống ấy lý giải tiến trình tự
chứng ngay được đạo qua phương pháp quán hành Thiền tông. Tiết thứ nhất
trong hệ thống nầy, Động Sơn luận đến “Hướng”. Có vị Tăng hỏi như thế
nào là hướng? Động Sơn trả lời: “Làm gì khi ăn?” Lại tiếp: “Được sức cần quên no, không có lương (dứt nguồn lương thực) lại chẳng đói.”
Nếu có thể hiểu lời dạy của Động Sơn, và dựa luôn cả hai câu nói của
Bách Trượng, thì đó mới là chỗ dụng công đúng lúc của hành giả sơ tâm.
Cái mà Động Sơn gọi là hướng, chính là chỉ cho xu hướng, hay nói khác
hơn là hướng thẳng đến. Nếu ngay từ ban đầu, việc tri hữu (nhận thức
thực tại) không được chuẩn bị chu đáo, và niềm hưng phấn hướng đến trạng
thái đốn ngộ, thì cái gì là “xu hướng”? Chớ vội nói đến “thú hướng nhứt
thừa”, mà phải nói đến tâm hướng của mình đã chuẩn bị như thế nào, nếu
không như vậy há có thể đạt được biên tế thật sự thuộc về hiện thể (hữu)
nầy của đốn ngộ chăng? Và làm sao mà trí tuệ có thể tự tại chuyển lưu?
Nước đầu nguồn có sinh động, cá mới vui bơi tận đáy, điểm nầy vẫn phải
cần nắm chắc lấy, do vậy “hướng” chính là cốt tủy. Động Sơn nêu ra pháp
thoại “Khi ăn làm gì?”, phẩm tính trọng đại của câu nói nầy, vốn có sự
tồn tại của “hướng” trong đó, phải là như vậy thôi. Thậm chí đã thông
đạt nghĩa lý một cách hoàn mãn rồi, ta mới chợt ngộ (đốn ngộ) được cái
bản lai không tai, mắt (mũi, lưỡi) ấy của pháp thoại “Mãi không ăn vẫn
không đói, suốt ngày ăn chẳng thấy no”. Tiến thêm bước nữa, hành giả sẽ
tự mình thực chứng cảnh giới chân như được Động Sơn chỉ dạy qua câu nói
“Được sức phải quên no, không có lương thực lại chẳng đói”. Đến giai
đoạn nầy, mới được gọi là chân trí, vì hành giả đã thực hiện xong nhiệm
vụ tất yếu cua mình một cách trọn vẹn. Xứng đáng là nhân vật cốt lõi, đã
không phải là gã ở ngoài cửa nữa.
Đây
là tắc công án của Bách Trượng khai thị chung cho người mới phát tâm
tham học, vì tính trọng yếu hiện thực của nó, mà tông Quy Ngưỡng bày tỏ
sự ủng hộ của mình với đường khâu vá cho tấm bia văn ngàn năm tưởng đã
rạn nứt ấy. Cũng vậy, Tông Lâm Tế lại triển khai khi mà hỏa thế vẫn đang
thừa sức cháy bừng, đến như mũi kim của tông Tào Động, có thể chẳng ai
dệt thêu đến chỗ tinh hoa bí nhiệm, nhưng rõ ràng họ là những nhân vật
tích cực xiển minh. Thật hợp lý biết bao khi đem hai câu khai thị ấy của
Bách Trượng làm thành phương tiện cương yếu của tông Tào Động trong
việc dạy dỗ cho những ai mới phát tâm cầu học đạo.
3.3- Bôn ba hằng ngày vì ai vậy?
Vân Nham hỏi: “Bôn ba hằng ngày vì ai vậy?” Sư đáp: “Có một người muốn.” Nham hỏi: “Sao không dạy anh ta tự làm.” Sư đáp: “Hắn sống (hoạt động) không nhà.”
Tắc
công án ấy, có thể nói là cùng một vấn đề của thoại đầu “Không nói đói
no-Bất đạo cơ bào” như đã đề cập. Tuy cùng một vấn đề, nhưng theo nhận
xét chung, tắc công này ấy dễ thâm nhập hơn. Đối với những ai mới phát
tâm cầu học, Bách Trượng không thị hiện bằng phương tiện hét và đánh chỉ
có một (mùi) vị duy nhứt là bàn bạc thật thà, thế nhưng trong ấy ngầm
xe chỉ luồng kim mà tiếp đọ học nhân. Đúng là “Uyên ương khéo dệt màu
lộng lẫy, trên sông hồ, tự tại cuộc nhàn du”, ta phải thấy đầu mũi kim
của Ngài vốn bén nhọn như thế nào rồi đấy.
Vân
Nham tên Đàm Thịnh, hậu duệ của Lạc Sơn, thầy của Động Sơn, Ngài là một
nhân vật đứng đầu của tông Tào Động. Mãi hai mươi năm tham học dưới
pháp hội của Bách Trượng, Ngài chưa khế ngộ, sau gặp Lạc Sơn, nhân đoạn
đối đáp “Pháp là gì?” giữa Bách Trượng và Lạc Sơn; Ngài đã bàn đến tắc
Thiền cơ (cơ tắc), luận bàn đến câu: “Cái gì thế” khi Bách Trượng hạ
đường, Lạc Sơn nói: “Sao không sớm nói như vậy, có ngày nay là do tôi
gặp được Hải huynh (Bách Trượng)”. Sau lời ấy, Vân Nham mới tỉnh ngộ.
Dựa vào đây, ta có thể nói rằng, Vân Nham chưa đạt được trạng thái toàn
tri dưới pháp hội của Bách Trượng, mãi đến khi được Lạc Sơn đề tỉnh Ngài
mới mở bừng mắt tuệ. Thế nhưng, chẳng huân tu Bát nhã nơi Bách Trượng,
làm gì có một Vân Nham của ngày sau, nếu chẳng trải qua dấu chấm phá duy
nhất (nhất điểm ) của Lạc Sơn, làm sao mà Vân Nham biết được một cái gì
đó nơi Bách Trượng? Và làm sao mà có thể biện giải nhiệm vụ tất yếu của
mình một đời mưu tìm biết rõ (tri hữu)? Bách Trượng, Lạc Sơn, hai nhà
sáng tạo như vậy đó, chỉ tiếc là Vân Nham còn mê nơi Bách Trượng, nhưng
may mà gặp Lạc Sơn nên được tỉnh ra.
“Bôn
ba hàng ngày vì ai vậy?” Nói chung, mọi người đều có cái nghi vấn như
thế cả, bất luận khi nào, cho dầu tự mình không thể lộ ra, dẫu việc
trách phạt có vẻ như thổ lộ rồi, nhưng cứ thế mà đoán suy, nghĩa là mày
mò theo đuổi, cho đến khi nào được dịp giải quyết thôi. Vân Nham hỏi
Bách Trượng thoại đầu ấy, chính là có ý đồ để giải quyết nó. Bách Trượng
trả lời với Vân Nham rằng: “Có một người muốn (cần)”. Nói chung như vậy
chính là hiện hữu một con người, muốn anh ấy phải bận rộn vì hắn, nghĩa
là anh ấy buộc phải vất vả trong cuộc chạy ngược chạy xuôi. Rốt lại ai
là nhân vật như vậy? Chẳng lẽ trong ta lại có cả người nào khác nữa? Lẽ
thường là thế, nhưng mà nếu có người nào nữa thì vẫn là sự cách biệt
ngàn trùng. Từ xưa đến giờ, mối tơ duy nhứt nầy, có biết bao chư Bồ-tát
trí tuệ đã chặt đứt tháo bung. Lạc Sơn là một trong những vị Bồ-tát như
vậy. Ngài nói đến cái nhân vật đó rất gọn, rất rõ cho những ai mới phát
tâm cầu đạo, Ngài nói rằng “Cái con người đó xưa nay vốn không mắt, tai,
mũi, lưỡi, v.v...”, đấy là lời chân thật, lời ấy phải được hộ trì.
Vân
Nham hỏi: “Bôn ba hằng ngày là vì ai vậy?” Bách Trượng đáp với Ngài:
“Có một người muốn.” Đáp như thế có nghĩa Bách Trượng chỉ cho cái thiết
yếu của khuôn mặt vô tướng ấy, đang làm bận rộn anh đấy. Thế nhưng Vân
Nham khi đó quá nhiều sở tri, theo ông có thể cái khuôn mặt vô tướng hầu
như huyễn ảo, do vậy lại hỏi rằng: “Vì sao chẳng dạy y tự làm”, đã vô
hình tướng mà lại hỏi dạy y làm, hỏi như vậy chẳng khác nào nói: “Không
lưỡi mà thuyên thuyết, không tay lại vung quyền” sao? Biết thế nên Bách
Trượng chỉ có thể nói như sau: “Hắn sống không nhà” hay nói khác hơn là
sự hoạt diệu của nhân vật vô tướng ấy vốn vô sở y. Động Sơn càng “lắm
lời”, đề ra cái gọi là: “Thường tại trong động dụng, trong động dụng giữ
được đâu.” Cái nhân vật vô tướng mạo ấy, vốn chẳng rời ai, dầu bạn muốn
biết hay không biết tới. Anh ta dầu sống không nhà cửa mà bắt ta phải
bôn ba, nhưng nếu bạn suy nghĩ lung tung, bận rộn vì hắn, họa loạn liền
phát sinh ngay. Ngược lại, nếu rõ được hắn rồi, vất vã hằng ngày càng
thêm nghĩa thú, cho dù không biết, cũng chẳng mất đi đâu, nghĩa là bạn
cố công mài chẻ thì lại càng khó gặp.
Vậy
đó, Tắc công án nầy, tông Tào Động lấy làm cương yếu để giáo hóa cho
những ai mới phát tâm cầu học, khiến họ nhận thức rõ việc tri hữu ngay
từ bước ban đầu tu học, xét ra quá thích đáng. Một mũi kim châm trong
câu đáp lời của Bách Trượng là thông điệp giác ngộ, vừa khoáng đạt, lại
tinh khôi, vết tích nầy có thể dẫn được ta đi. “Có một người muốn”, tức
là công việc nặng nhọc trong lao động hằng ngày của chúng ta, tất cả
được gắn trên đầu mũi kim, ví như có đặt cái tri hữu ở xa, thì sức cảm
ứng của nó, cũng sẽ khiến ta được chạm vào.
Ba
công án khai thị của Bách Trượng như vừa nêu, tông Tào Động dựa hẳn vào
đây để “Vạch mặt chỉ tên”, cái bản lai diện mạo vô tướng ấy. (Những)
công án được nêu tiếp theo, chủ yếu hiển bày cảnh giới chứng ngộ của
trực cảm, hay nói khác hơn là cảnh giới chứng ngộ của hiện lượng, (Hiện
lượng là một thuật ngữ của Duy Thức chỉ cho trạng thái trí tuệ trực cảm,
không qua giai đoạn tư duy suy lượng, nghĩa là sự nắm bắt thực tại
không qua lý luận, phân tích, từ Tây phương tương đương – Emotional
intelligent ND), phần nhiều thể hiện chánh kiến (Tri kiến chân thật) của
trí Bát nhã diệu hoạt. Có thể nói những công án sau đây, chứa đựng
khuynh hướng đa thù của huyền cơ diệu dụng, mà sức sống động của nó ví
như lũ cá tung tăn trong hồ nước mùa xuân, tợ ánh trăng rằm giữa trời
thu thanh tịnh. Phát xuất từ văn tự Bát nhã (Tam muội) như vậy, nó dạy
cho chúng ta tùy phần hội nhập cảnh giới của tâm (mỗi người có một cách
riêng để hội nhập cảnh giới của tâm).
3.4- Chớ nói bằng cổ, họng, môi, miệng.
Ngưỡng Sơn, Ngũ Phong, Vân Nham đứng hầu kế (Bách Trượng). Sư hỏi Ngưỡng Sơn: “Chớ dùng cổ, họng, môi, miệng, làm sao nói?
Sơn nói: “Thỉnh Hòa thượng nói ngay,” Sư nói: “Ta không có lời nói với ngươi, về sau e rằng con cháu tan loạn.” Lại hỏi Ngũ Phong như vậy, Phong đáp: “Hòa thượng cũng không nên dùng những cái đó để nói.” Sư đáp: “Chỗ không người ta sẽ dập đầu lạy ngươi.” Sư lại hỏi Vân Nham như thế, Nham đáp: “Hòa thượng cũng có chưa?” Sư nói: “Tan loạn con cháu ta.”
Tắc công án nầy được Bách Trượng thể hiện, điểm trọng yếu của nó là
Bách Trượng muốn kiểm chứng vấn đề căn bản duy nhất đó của học trò mình,
trong việc thấu triệt nhiệm vụ tất yếu (bổn phận sự) hay không. “Chớ
dùng cổ, họng, môi, miệng làm sao nói?” Câu nói ấy, nó không bắt bạn
phải tư duy, hay tìm kiếm một cái gì, hãy cứ y vào sự thật mà trình bày,
bạn sẽ tự có đạo lý để xuất than, siêu việt mọi trở lực (đâu có gì
khống chế được ta!). Ngưỡng Sơn (còn có tên Linh Hựu) nói: “Thỉnh ngay
Hòa thượng nói”. Như vậy tức là dựa vào sự thật để trình bày rồi. Tuyết
Đậu lại bày tỏ: “Liền thỉnh Hòa thượng nói”. Cọp mọc sừng đi ra vùng cỏ
rậm, mười châu (thiên hạ) hết xuân, hoa tàn tạ, rừng san hô rực rỡ mặt
trời”. Ngũ Phong (tên Thường Quán) nói: “Hòa thượng cũng không nên dùng
những thứ đó để nói.” Nói thế cũng là dựa vào sự thật để trình bày rồi.
Bài tụng của Tuyết Đậu như sau: “Hòa thượng cũng không nên dùng những
thứ đó nói, trên trận Long Xà (rắn rồng) duyệt mưu lược; khiến đời nhớ
mãi Lý tướng quân, vạn dặm trời thu lặng, vút một cánh chim ưng.” Xin
mời mọi người quan sát, điểm nào là chân lý, hay sự thật cho Ngưỡng Sơn,
Ngũ Phong dựa vào để bày tỏ? (nếu chẳng có điểm nào tâm đắc) thì Tuyết
Đậu làm gì có (những) tụng văn tuyệt diệu kia. Vân Nham nói: “Hòa thượng
cũng có chưa?” Tuyết Đậu tán tụng câu nói nầy như sau: “Hòa thượng cũng
có chưa? Sư tử lông vàng vươn mình dậy, tụm năm tụm ba (lưỡng nhưỡng
tam tam) đi lối cũ, thoáng mắt Thiền không dưới núi Đại Hùng.” Nội dung
của tụng văn quá rõ ràng. Chỉ một câu nói: “Tụm năm tụm ba (xúm xít hai
ba)”, cũng khiến người vượt thoát lưới nghi. Thật ra, chỉ khi nào thấu
triệt phận sự tất yếu, thì khi ấy mới có con đường siêu xuất, còn không
thì vẫn mãi ở trong vòng lẩn thẩn của cái gọi là “lưỡng lưỡng tam
tam-xúm xít hai ba”, của lưới nghi chằng chịt. Bách Trượng đối với đáp
ngữ của ba môn đệ mình, như ta biết, há chẳng phải là tấm lòng quá sâu
nặng đó sao? Vả lại, lời đáp của Ngài, chính là lời phê phán đã có kiểm
nghiệm, ta chớ nên xem thường. Lời đáp của Bách Trượng, chính là đã vạch
ra cách dựa vào sự thật cộng thông, chúng ta cũng có thể đoán được, như
thế nào là việc phân lượng thần diệu nằm bên dưới của thang thuốc đã
được bậc danh y kê bổ (12). Nếu quá dứt khoát, thì không có sự thật nào
có thể dựa nương, do vậy tự mình nhận lấy tội trạng. Vân Nham do duyên
xứ của Lạc Sơn mà đắc ngộ, Ngài đã tự thừa nhận rằng, suốt 20 năm nơi
đạo tràng của Bách Trượng mà đèn lòng (tâm đăng) vẫn chưa tỏ rạng, Lạc
Sơn lại nói với Ngài: “Tục khí vẫn còn dù 20 năm ở nơi Bách Trượng”,
thời ấy Bách Trượng phê phán Ngài là “Tang loạn con cháu tôi”, Tuyết Đậu
cũng châm biếm “Ngón tay bún vu vơ dưới núi Đại Tùng” trong những lời
ấy có bao ý tuyệt vời, đáng làm thước đo (13).
3.5- Không (lầm) lạc không (mê) muội.
Công
án Thiền chồn hoang này, là một công án rất nổi tiếng của Bách Trượng;
nó rà soát một cách tinh tế cho thời kỳ tương lai. Sở dĩ nổi tiếng, là
vì nó nói rất rõ bối cảnh hoàn chỉnh của nguyên lý nhân quả thuộc về trí
Bát Nhã, cho những bậc đại tu hành thấu triệt mà thôi. thế nên cổ đức
nói, Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả, sợ nhân quả là vì nhận thức được
pháp, do vậy chớ nên tạo thêm nghiệp chướng! Qua tình huống liên quan
đến công án này, ta chẳng nên nhọc sức truy xét trên mặt văn tự, cũng
chẳng cần nghiên cứu nguyên từ, tóm lại nên nói đến chi tiết trọng yếu
của nó:
“Bậc
đại tu hành còn lạc (rớt vào) nhân quả hay không?” Đáp sai câu hỏi nầy,
nói rằng: “Chẳng lạc nhân quả”. Hỡi ôi! Tai họa đến, trả lời như vậy
nên chính người đó bị cột buộc làm thân chồn cáo. Xin mời đại sư Bách
Trượng chuyển một lời thay cho, đáp rằng: “Chẳng mê muội nhân quả”, dưới
lời chuyển tâm (chuyển y hay là chuyển cơ cấu nội tại) ấy lại bừng vui
mà đại ngộ, cởi thoát thân cáo chồn, tình tiết nầy chỉ có thế thôi. Đó
chẳng phải là nằm mộng giữa ban ngày sao? Nhưng quả là có giấc mộng hiện
bày ra đấy.
Quá
nhiều người biết công án nầy, cũng đã quá nhiều luận bàn, không cần tán
vượn tán hưu nữa. Bây giờ hãy nói đến Tuệ Nam, cháu chắt của giòng
Thiền Lâm Tế, trụ trì thời Tích Thúy, đặc biệt có Thiền giả pháp hiệu
Đạo Viên theo hầu sư, rốt ráo theo pháp tu trì (y chỉ). Pháp bố của Nam
công cực kỳ hưng thịnh, học chúng rất đông.
Đạo
Viên ngày kia đang ngủ ở yến toàn (trai đường), chợt nghe hai vị Tăng
nêu lên công án chồn hoang của Bách Trượng, một người cho rằng: “Chẳng
muội nhân quả, cũng chưa thoát được thân chồn”, Vị kia nói: “Chẳng lạc
nhân quả, sao lại rơi vào kiếp chồn hoang”. Nghe như vậy Đạo Viên bất
ngờ rúng động! Thấy mình sực tỉnh nhảy qua khe suối, nghe Nam Công nói
chưa hết việc nầy, lệ tuôn ướt má. Nam Công giựt thị giả (chính là Đạo
Viên) đang ngủ say trên ván dậy, thị giả tỉnh ngủ, bỗng nói kệ rằng:
“Chẳng lạc chẳng muội, tăng tục vốn không kỵ úy, bậc trượng phu khí định
như vua, sao có thể bị giam trong bao túi? Một nhánh lang tiêu vẫy vùng
ngang dọc, đoàn kim mao (sư tử vàng) chồn cáo nhảy múa cùng.” Nam Công
thấy vậy, tỏ ý mừng cho.
Công
án về chồn cáo đã được ngươi xưa mộng nghe như vậy mà sáng tạo ra thi
kệ, (tôi) chỉ làm công việc trích dẫn tình tiết ra đây, phần giải thích
chính là người đọc.
3.6- Chuyện kỳ đặc (không ngờ).
Hỏi: “Như thế nào là chuyện kỳ đặc?” Sư đáp: “Đơn độc ngồi (độc tọa) ngọn Đại Hùng.” Tăng lễ lạy, Sư liền đánh.
Tắc
công án nầy, phơi bày cái ý đồ (mẹo) ban đầu mà ta không tiếp cận được,
ngộ tuy không thể không, nhưng đã rớt vào cái mẹo thứ nhì. Còn không
ngộ lại hóa thành ngu muội, trong cái vẻ lạnh lùng của Bách Trượng có
thể thấy được đôi điều khí khái, có tung có đoạt, phân biệt rõ ràng
trong cách trảm trừ vọng tưởng. Bách Trượng đúng là núi chúa, Bách
Trượng đem tới liền dùng, đỉnh cao chót vót cùng gõ nhịp. Sử dụng câu:
“Độc tọa Đại Hùng” để đáp lại câu hỏi người “Thế nào là chuyện kỳ đặc?”
Đáp câu hỏi nầy, đạo lý khá thông, dưới danh ngôn cơ hồ ai ai cũng rõ.
Dẫu cho thế nào đi nữa, chúng ta thật sự có dịp may đi qua cảnh giới của
hai chữ “độc tọa” ấy. Đã thật sự đến nơi rồi, còn nói chi là chuyện lạ
kỳ nữa chứ, rớt vào cái mẹo thứ hai của Ngài thôi. Há chẳng thấy đỉnh
cao thần diệu, há chẳng thấy Đức Vân hội kiến ngay với Đồng tử Thiện Tài
tại đỉnh điểm đặc thù. Được trả lời, tăng lễ lạy, vị ấy đã ngộ rồi
chăng? Dám nói đang thấy Bách Trượng chăng? Sự thuận tay đánh, ha ha,
đấy mới là mưu lược của bậc đại nhân, đã hướng lên (hướng thượng - hướng
đến chân lý) mà việc vẫn còn.
5- Quán nhập nhập lý. (Lý: thể nghiệm chân lý - thâm nhập tánh nghe.)
Thỉnh
hết mọi người ra cày ruộng tiếp, bỗng một vị Tăng nghe tiếng chuông
ngân, vỗ đầu cười ha hả, bỏ về. Sư (Bách Trượng) nói: “Khéo thay, đấy là
phép Quán Âm nhập lý.” Sư về viện, bèn gọi ông Tăng ấy hỏi: “Vừa rồi
ông thấy đạo lý gì mà cười vậy?” Ông tăng đáp: “Vừa rồi bụng đói, nghe
chuông về ăn thôi.” Sư bèn cười. Pháp hội của Bách Trượng là một tập thể
Thiền chúng bình đẳng (Thiền hòa tử), vui sống bằng cần lao, điều đó
chẳng dễ dàng gì. Bất cứ ai đến đây tham cầu Phật pháp, Bách Trượng cũng
cho làm công việc cày bừa, vì đây là Phật sự, với công việc nầy mới rõ
được, mới thấy được sự thụ dụng chân thật. Mời hết ra ruộng cày, trên
dưới đồng nỗ lực, làm việc như vậy đã thành chế độ rồi. Đấy chính là thủ
thuật chắt lọc mà đơn giản của bậc đại nhân, và vào thời đó đấy cũng
chính là cuộc cách mạng vĩ đại nhất của Thiền tông đối với Phật giáo.
Phương pháp này có khi đã trở thành kinh điển, được các Thiền viện áp
rụng rộng rãi, nó đã mang lại tác dụng hữu hiệu nhất, trong việc khai
ngộ cho Thiền chúng, việc nầy xin tạm gác lại. Cứ như vị Tăng ấy “Nghe
tiếng chuông, vỗ đầu cày cười ha hả, bỏ đi về”, còn ngược lại thì sao?
Nếu như không có sự nuôi dưỡng gội nhuần của Thiền đạo, nếu như không có
trạng thái phiêu nhiên tự tại đắc thắng như vậy, thì làm sao mà thể
hiện được tinh thần pháp hỷ trong niềm lạc quan như vậy chứ? Bách Trượng
nói: “Từ xưa đến giờ, Phật chỉ là người, người chỉ là Phật”, thế nên
Phật pháp được chứng nghiệm chẳng do việc của người. Việc của người cũng
được thể nhập pháp Phật.❑
Nguyên tác Hán văn: Nãi Quang
(Nguồn: Phụ bản Pháp luân số 3)
|
Thứ Ba, 17 tháng 4, 2012
Thiền yếu của Bách Trượng
Thiền yếu của Bách Trượng
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét